Thẩm tra và giám sát là một trong những chức năng chính của các Ban thuộc HĐND được quy định trong Luật Tổ chức Chính quyền địa phương và Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND. Thẩm tra là việc đánh giá về sự phù hợp của dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tình hình, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; nêu rõ quan điểm và đề xuất phương án xử lý đối với những nội dung còn có ý kiến khác nhau. Thẩm tra là một trong những nhiệm vụ quan trọng, chủ yếu của các Ban HĐND nhằm xem xét tính hợp pháp, khoa học, khả thi của vấn đề được đề cập trong báo cáo, đề án, tờ trình và dự thảo Nghị quyết trình kỳ họp HĐND. Kết quả thẩm tra là cơ sở phản biện quan trọng để đại biểu HĐND thảo luận và quyết nghị, từ đó đảm bảo cho nghị quyết của HĐND ban hành hợp hiến, hợp pháp, khoa học, khả thi cao, phát huy hiệu lực, hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh và nâng cao đời sống nhân dân.

bna-mai-hoa1-5548.jpg
Bà Quế Thị Trâm Ngọc, Phó Trưởng Ban Dân tộc HĐND tỉnh phát biểu tham luận tại Hội nghị

Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý. Giám sát chuyên đề là một trong bốn hoạt động giám sát của các Ban, là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, nhằm mục đích bảo đảm cho pháp luật của nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân được thực hiện đúng đắn, thống nhất và hiệu quả; kết quả giám sát có tác dụng tích cực trong việc giải quyết các vấn đề bức xúc ở địa phương. Qua giám sát nhằm phát hiện những sai phạm, hạn chế, thiếu sót, qua đó có biện pháp, giải pháp, chấn chỉnh, khắc phục kịp thời.

Xác định vai trò và tầm quan trọng của công tác thẩm tra, giám sát, Ban Dân tộc HĐND tỉnh đã tập trung huy động mọi nguồn lực (nhân lực, vật lực) để thực hiện, nhất là việc thẩm tra chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025 và tham gia phối hợp với các Ban thẩm tra các chương trình mục tiêu quốc gia, góp phần nâng cao Chất lượng các kỳ họp HĐND tỉnh cũng như chất lượng hoạt động của HĐND tỉnh nói chung. Trong quá trình hoạt động, Ban Dân tộc xin chia sẻ một số kinh nghiệm như sau:

1.Về hoạt động thẩm tra

Thứ nhất, để việc thẩm tra thực sự có chất lượng, công tác chuẩn bị thẩm tra có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thẩm tra các Ban HĐND phải chủ động liên hệ yêu cầu UBND và các cơ quan liên quan gửi báo cáo, đề án kèm theo các hồ sơ, tài liệu liên quan đúng thời hạn, đảm bảo thời gian để các Ban triển khai các hoạt động thẩm tra, có cơ sở nghiên cứu tài liệu một cách kỹ lưỡng, thấu đáo. Chủ động phối hợp với các cơ quan chuyên môn ngay trong quá trình xây dựng dự thảo nội dung; làm việc với các đơn vị liên quan để tiếp cận trước các dự thảo, trao đổi các nội dung cần làm sáng tỏ; thường xuyên tiếp cận các dự thảo ngay từ ban đầu cho đến các dự thảo tiếp theo cho đến dự thảo cuối cùng. Hoạt động thẩm tra phải đảm bảo trình tự, thủ tục theo luật định.

Thứ hai, căn cứ vào nội dung được phân công, Lãnh đạo Ban xây dựng kế hoạch thẩm tra, thảo luận, xác định cơ sở pháp lý, thẩm quyền. Khi xác định rõ về cơ sở pháp lý, thẩm quyền, Lãnh đạo Ban phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên Ban gắn liền với kinh nghiệm và địa bàn, đơn vị mà thành viên Ban đang công tác của từng thành viên để nhằm phát huy sức mạnh tập thể (phát huy khả năng hiểu biết của thành viên Ban, mang tính chuyên sâu), ngoài nội dung được phân công các thành viên Ban có thể tham gia vào các vấn đề mà mình quan tâm.

Thứ ba, Quá trình thẩm tra phải xác định rõ đối tượng, phạm vi mà báo cáo, đề án tờ trình tác động đến để tổ chức các hoạt động giám sát, khảo sát thực tế tại các địa phương, đơn vị có liên quan đến vấn đề cần thẩm tra, công việc này được tiến hành khẩn trương, liên tục, khai thác vấn đề từ nhiều nguồn thông tin một cách trung thực, khách quan, toàn diện có đối chiếu và kiểm chứng (ngoài các nguồn thông tin tại địa phương thì tham khảo thêm các nguồn thông tin từ tỉnh bạn); trong trường hợp cần thiết thì tiến hành trưng cầu ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học về các vấn đề, lĩnh vực liên quan. Hoặc các Ban chủ động đề nghị với Thường trực HĐND tổ chức các cuộc họp, hội nghị chuyên đề để có thêm tư liệu, luận cứ cho việc thẩm tra. Đặc biệt, trong những trường hợp nội dung của báo cáo, đề án liên quan đến quyền lợi của nhiều người hoặc một nhóm đối tượng nào đó thì việc đưa nội dung để lấy ý kiến thăm dò, góp ý của nhân dân và các đối tượng chịu tác động là một yêu cầu cần thiết, từ đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất phù hợp.

Tham dự các Hội nghị, hội thảo xây dựng dự thảo tờ trình nghị quyết do cơ quan soạn thảo tổ chức, các phiên họp của UBND tỉnh thông qua dự thảo tờ trình nghị quyết, qua đó có tìm hiểu các thông tin, nắm bắt được các vấn đề; tham gia ý kiến đối với cơ quan soạn thảo ngay từ bước đầu. Qua đó những vấn đề còn băn khoăn được cơ quan thẩm tra, cơ quan chủ trì soạn thảo và các thành viên UBND tỉnh trao đổi cụ thể, nhằm tạo sự thống nhất, giảm bớt ý kiến trái chiều trong báo cáo thẩm tra, giảm bớt báo cáo giải trình, từ đó giảm bớt thời gian trình bày báo cáo, việc thảo luận tại các kỳ họp vì vậy cũng được rút ngắn. Trường hợp cần thiết, Ban có thể tranh thủ các ý kiến từ các cơ cấp trên để có thêm các thông tin cần thiết.

Thứ tư, Khi nghiên cứu hồ sơ, tài liệu thẩm tra cần đối chiếu so sánh kỹ nội dung của Tờ trình và dự thảo nghị quyết với các tài liệu khác có liên quan, nhất là các văn bản góp ý của các sở, ngành, địa phương để phát hiện các vấn đề còn có ý kiến khác nhau mà chưa được giải trình, tiếp thu hoặc tiếp thu chưa đến nơi đến chốn.

Đối với các nội dung phối hợp, trên cơ sở các thông tin thu thập được, cùng với việc rà soát các nội dung mà Ban được giao chủ trì, chuyên trách Ban chủ động trao đổi với lãnh đạo các Ban, tiếp cận sớm dự thảo và trao đổi, làm rõ những vấn đề quan tâm; trao đổi lại với các thành viên Ban Dân tộc ở các địa bàn để nắm thêm các thông tin cần thiết cũng như thống nhất về quan điểm trước khi có ý kiến tham gia.

Thứ năm, tranh thủ ý kiến chỉ đạo và định hướng của Thường trực HĐND tỉnh

Trước khi tổ chức họp thẩm tra với cơ quan chủ trì soạn thảo hồ sơ dự thảo Nghị quyết, Ban tổ chức họp nội bộ thông qua dự thảo báo cáo thẩm tra để thống nhất nội dung. Khi tổ chức hội nghị thẩm tra, Ban chủ động mời Thường trực HĐND phụ trách lĩnh vực Ban cùng tham dự để cho ý kiến và có định hướng sớm, trước khi Thường trực HĐND tổ chức phiên họp để nghe các Ban báo cáo sơ bộ về nội dung thẩm tra.

Đối với các hồ sơ dự thảo Nghị quyết chưa phù hợp với tình hình thực tế, thiếu tính khả thi, còn có ý kiến trái chiều, Ban sớm báo cáo tại phiên họp Thường trực HĐND để có định hướng, đảm bảo sự thống nhất, không đưa vào nội dung chương trình kỳ họp đối với những hồ sơ dự thảo nghị quyết không đảm bảo chất lượng.

Từ kết quả của các cuộc giám sát, khảo sát, nghiên cứu tài liệu và ý kiến tham gia của các thành viên, Ban tiến hành họp thẩm tra, trong đó làm rõ mục đích, sự cần thiết, cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn, đánh giá tác động, tính khả thi của các báo cáo, đề án tờ trình và dự thảo nghị quyết.

toan-canh.jpg
Toàn cảnh Hội nghị

Thứ sáu, Báo cáo thẩm tra của các Ban HĐND là một trong những tài liệu quan trọng thể hiện quan điểm của Ban, giúp cung cấp thông tin cho các đại biểu HĐND tỉnh, do vậy nội dung báo cáo thẩm tra của các Ban HĐND tỉnh cần ngắn, gọn, đi sâu vào nội dung thẩm tra, báo cáo thẩm tra không sửa các lỗi cụ thể về chính tả, gây dài dòng, không cần thiết. Báo cáo thẩm tra phải thể hiện rõ về cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn, sự phù hợp, tính khả thi với điều kiện thực tế của địa phương; tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo với hệ thống pháp luật, đề xuất các nội dung cần sửa đổi, bổ sung, phương hướng xử lý các vấn đề chưa thống nhất (nếu có); kết luận thẩm tra phải cụ thể, rõ ràng; những vấn đề Ban nhất trí, không nhất trí đều cần làm sáng tỏ, tạo cơ sở tin cậy cho việc xem xét, quyết nghị của đại biểu HĐND tỉnh tại kỳ họp.

Đối với những dự thảo nghị quyết có câu từ dài dòng, chưa rõ nghĩa Ban cần trao đổi, tạo sự thống nhất giữa cơ quan chủ trì soạn thảo và cơ quan trình để đưa ra nội dung đề xuất cho phù hợp. Báo cáo thẩm tra của Ban cần được xây dựng trên cơ sở Báo cáo mẫu mà (TT HĐND tỉnh đã ban hành mẫu). Đây là một trong những vấn đề nhằm nâng cao chất lượng báo cáo thẩm tra. Vì mẫu sẽ giúp xác định được các nội dung cần thẩm tra theo quy định của pháp luật và đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của Ban cũng như với các Ban khác.

Ban cần phải tổ chức lấy ý kiến thành viên Ban về dự thảo Báo cáo thẩm tra trước khi ký ban hành.

  1. Về hoạt động giám sát

Thứ nhất, xác định và lựa chọn nội dung giám sát cho “trúng”, “đúng”. Việc lựa chọn đúng nội dung giám sát, đúng thời điểm có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần đem lại tính hiệu quả trong hoạt động giám sát. Vì hoạt động giám sát của HĐND có nội dung rất rộng, đối tượng đa dạng; do đó cần lựa chọn những vấn đề trọng tâm, được cử tri, đại biểu quan tâm, những vấn đề còn nhiều bất cập; không nên chọn quá nhiều nội dung, nội dung dàn trải sẽ dẫn đến việc giám sát không sát, giải quyết vấn đề một các chung chung, không cụ thể. Để chọn những nội dung giám sát phù hợp chúng ta cần quan tâm đến những đề xuất của Ủy ban MTTQVN, các vị đại biểu HĐND và các thành viên của Ban; mặt khác cần xem xét qua các kiến nghị của cử tri, các ý kiến chất vấn của đại biểu tại các kỳ họp, tại các buổi tiếp công dân; những vấn đề mà dư luận quan tâm. Hoạt động giám sát cần phải thực hiện nghiêm túc theo quy trình chặt chẽ cả trước, trong và sau mỗi đợt giám sát. Trong công tác chuẩn bị trước khi giám sát cần nghiên cứu kỹ nội dung để từ đó xác định được mục đích, yêu cầu, đối tượng, phạm vi giám sát.

Theo quy định của Luật, Ban Dân tộc được Thường trực HĐND tỉnh phân công nhiệm vụ theo dõi, tổ chức giám sát và tham mưu cho HĐND, Thường trực HĐND giám sát, quyết định biện pháp thực hiện chính sách dân tộc. Tuy nhiên, công tác dân tộc bao quát ở nhiều lĩnh vực và được quy định trong nhiều văn bản khác nhau, tuy nhiên và giao cho nhiều cơ quan khác nhau quản lý, chủ trì thực hiện; mặt khác, công tác quản lý nhà nước về công tác dân tộc là công tác quản lý đa ngành, đa lĩnh vực hầu như ở ngành nào, lĩnh vực nào cũng có chính sách dân tộc có liên quan… Trong cùng hệ thống cơ chế, chính sách có tính tương đồng như: chính sách miễn, giảm tiền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; chính sách hỗ trợ về lĩnh vực thông tin, truyền thông, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật; chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống và bài trừ các hủ tục lạc hậu… nhưng có nội dung thì do Ban Dân tộc tỉnh quản lý, một số hoặc một số ít nhiệm vụ, chính sách do các ngành quản lý... Vì vậy, khi lựa chọn chuyên đề giám sát cũng như trong giám sát Ban đã gặp không ít khó khăn trong việc xác định chủ thể, đối tượng chính chịu sự giám sát.

Xuất phát từ công tác quản lý nhà nước, hàng năm, cùng với các Ban của HĐND, Ban Dân tộc đã chủ động xây dựng chương trình giám sát, trong đó xác định cụ thể nội dung, đối tượng và phạm vi giám sát. Đồng thời tham khảo chương trình kiểm tra, giám sát của cấp ủy Đảng; chương trình giám sát của Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội… để phối hợp hoặc lựa chọn nội dung, đối tượng giám sát nhằm tránh trùng lặp, từng bước nâng cao chất lượng hiệu quả của hoạt động giám sát, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng đổi mới công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc. Hàng năm, Ban Dân tộc HĐND tỉnh đã lựa chọn, thảo luận, quyết định nội dung giám sát, để tổ chức ít nhất mỗi năm 02 cuộc giám sát chuyên đề, đồng thời tổ chức thêm một số đợt khảo sát; nội dung các cuộc giám sát chủ yếu tập trung vào việc triển khai thực hiện trực tiếp đến thực hiện chính sách dân tộc, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số và được lựa chọn theo từng nhóm vấn đề như sau:

Nhóm chính sách theo dân tộc và nhóm dân tộc, giúp giải quyết những khó khăn bức xúc về kinh tế, xã hội của các dân tộc thiểu số, nhất là nhóm dân tộc thiểu số rất ít người và một số dân tộc có nhiều khó khăn. Các chính sách này đã giúp đồng bào ngày càng tiếp cận và thụ hưởng tốt hơn các dịch vụ công như y tế, giáo dục, nước sạch, vệ sinh môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa từng dân tộc…

Nhóm chính sách phát triển kinh tế, xã hội theo vùng, địa bàn. Tập trung giải quyết những vấn đề khó khăn sát với tình hình của địa phương, góp phần phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất chung của vùng, giải quyết bức xúc đặt ra theo yêu cầu thực tế: ảnh hưởng thiên tai, biến đổi khí hậu, khai thác khoáng sản…phát triển sản xuất; việc bố trí các nguồn vốn được thực hiện đảm bảo kế hoạch đã phê duyệt, góp phần nâng cao thu nhập cho các hộ dân, xóa đói giảm nghèo cũng như chuyển dần tập quán phát triển nông nghiệp nhỏ lẻ, tự cung tự cấp sang phát triển xây dựng mô hình tập trung tạo thành hàng hoá theo nhu cầu thị trường.

Nhóm chính sách phát triển kinh tế, xã hội theo ngành, lĩnh vực. Tập trung vào các lĩnh vực cụ thể như phát triển sản xuất, giảm nghèo, nước sạch, vệ sinh môi trường, giáo dục - đào tạo, dạy nghề và giải quyết việc làm, bảo tồn và phát triển văn hóa du lịch, thông tin truyên truyền, y tế, dân số, chăm sóc sức khỏe, công tác cán bộ cơ sở, phổ biến giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý.

Thông qua các cuộc giám sát chuyên đề đã giúp cho Ban dân tộc Hội đồng nhân dân tỉnh nắm rõ hơn về việc chấp hành pháp luật của các đơn vị thực hiện chính sách dân tộc tại địa phương, đồng thời phát hiện ra những hạn chế, vướng mắc và đưa ra nhiều kiến nghị đối với các cơ quan thực hiện chính sách dân tộc. Những kiến nghị sau giám sát có tác dụng tích cực và kịp thời giúp các cơ quan thực hiện chính sách dân tộc chấn chỉnh những thiếu sót, hạn chế cũng như giải quyết được nhiều vướng mắc, khó khăn, bất cập.

Thứ hai, Trong giám sát có hai vấn đề then chốt, có vai trò vô cùng quan trọng góp phần nâng cao chất lượng hoạt động giám sát đó chính là nhân tố con người và hoạt động giám sát sau giám sát. Do đó trên cơ sở nội dung và tình hình thực tiễn tham mưu và thành lập đoàn đảm bảo theo quy định nhưng gọn nhẹ (tùy theo tính chất của vấn đề mà lựa chọn thành viên, không phải lúc nào cũng phải đầy đủ thành viên của Ban) và đảm bảo thực hiện được mục tiêu giám sát đề ra. Trường hợp cần thiết cần phải mời chuyên gia tham gia đoàn giám sát hoặc tranh thủ ý kiến của những người có am hiểu sâu, rộng lĩnh vực giám sát để nâng cao chất lượng giám sát.

Chú trọng công tác phối hợp, nhất là trong công tác xây dựng chương trình kế hoạch giám sát. Sự tham gia của Ủy ban MTTQVN và Thường trực HĐND cùng cấp là rất quan trọng nhằm nắm thông tin đa chiều hơn; đồng thời, tranh thủ ý kiến của các cơ quan, tạo được tiếng nói chung và sự đồng thuận đối với việc kiến nghị, đề xuất qua giám sát. Vì vậy, trong mỗi đợt giám sát, cần phải mời đại diện Ban Thường trực Ủy ban MTTQVN, Thường trực HĐND và đại biểu HĐND ứng cử tại địa phương tham gia khi đoàn giám sát đến giám sát tại địa phương.

Thứ ba, Thực hiện tốt công tác xây dựng kế hoạch và đề cương giám sát kế hoạch và đề cương giám sát, mẫu báo cáo cần được chuẩn bị kỹ lưỡng và được gửi trước cho các đối tượng được giám sát; các cuộc giám sát đều có kế hoạch, chương trình cụ thể, hình thức giám sát phù hợp đối với từng nội dung đã được HĐND tỉnh thông; qua đôn đốc các cơ quan, đơn vị được giám sát gửi báo cáo đúng thời hạn, đảm bảo chất lượng. Trước khi tổ chức giám sát cần họp Đoàn để triển khai kế hoạch giám sát và giao nhiệm cụ thể cho mỗi thành viên Đoàn giám sát. Giám sát trực tiếp tại cơ sở trước, sau đó giám sát tại các cơ quan chuyên môn có liên quan; kết hợp nghe, đối chiếu nội dung báo cáo với kiểm tra hồ sơ, thực tế tại địa phương, cơ sở.

Thứ tư, trong quá trình giám sát cần đi sâu, tìm hiểu kỹ tình hình thực hiện tại cơ quan, đơn vị, địa phương; yêu cầu đối tượng giám sát cung cấp thông tin đầy đủ, chi tiết để từ đó có cơ sở rút ra những kết luận đúng và đề xuất kiến nghị hợp lý, tránh tình trạng giám sát chung chung mang tính hình thức; cần làm rõ những vấn đề chưa rõ ràng, những vấn đề chưa nêu đầy đủ theo yêu cầu của đoàn giám sát. Hoạt động giám sát chuyên đề chỉ có hiệu lực, hiệu quả thực sự khi những đề xuất kiến nghị qua giám sát được các đối tượng giám sát tiếp thu, phát huy ưu điểm, khắc phục tồn tại, hạn chế, được các cơ quan hành chính nhà nước có liên quan giải quyết triệt để; vì vậy, việc tổng hợp báo cáo kết quả giám sát phải đảm bảo tính chính xác, khách quan, toàn diện và có sự thống nhất của thành viên đoàn giám sát với các cơ quan, đơn vị có liên quan; quy trình trên phải được thực hiện đồng bộ thì kết quả giám sát mới có chất lượng, hiệu quả như mong muốn. Sau đợt giám sát, phải đặc biệt quan tâm đến việc theo dõi tiến độ xử lý của các cơ quan chuyên môn, đối với những cơ quan chậm xử lý, cần có văn bản nhắc nhở, đôn đốc kịp thời.

Ngoài ra, nhằm mục đích thu thập thông tin, làm rõ các vấn đề giữa đề cương, báo cáo và thực tế của cuộc giám sát; bên cạnh việc tổ chức các cuộc làm việc chính thức, hoạt động giám sát cần tăng cường sử dụng nhiều công cụ khác nhau như quan sát, thảo luận nhóm, phỏng vấn, phát phiếu bảng hỏi….sẽ có được các thông tin đa dạng, nhiều chiều

Thứ năm, báo cáo kết quả giám sát phải được đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện và sâu sắc về nội dung giám sát, đảm bảo khách quan, có căn cứ; các số liệu, nhận định cần tinh gọn nhưng đảm bảo tính chính xác; chỉ ra những kết quả đạt được, nhất là những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân khách quan, chủ quan, trách nhiệm làm rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành và đưa ra lộ trình, thời hạn thực hiện cụ thể, đưa ra những giải pháp tích cực, khả thi trước mắt và lâu dài; đồng thời kiến nghị bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung những quy định, chính sách không còn phù hợp. Dự thảo báo cáo giám sát cần được tất cả các thành viên đoàn giám sát có ý kiến tham gia trước khi thông qua tại buổi làm việc với các chủ thể giám sát; hoàn chỉnh báo cáo trước khi phát hành. Các kiến nghị sau giám sát phải phù hợp với tình hình thực tế, xác đáng, có tính khả thi cao.

Thứ sáu, hiệu quả giám sát của Ban của HĐND thể hiện ở việc các kết luận, kiến nghị qua giám sát được các cơ quan, tổ chức và cá nhân chịu sự giám sát thực hiện nghiêm, sâu sát. Chất lượng và hiệu lực giám sát càng cao thì hiệu quả hoạt động giám sát sẽ càng cao. Việc theo dõi, đôn đốc các đơn vị liên quan thực hiện các kiến nghị, kết luận qua giám sát là rất cần thiết. Sau giám sát cần quan tâm đến việc chủ thể chịu sự giám sát khắc phục hạn chế, yếu kém, vi phạm sau khi được giám sát. Tăng cường công tác kiểm tra, theo dõi, đôn đốc khắc phục những hạn chế, tồn tại được kiến nghị qua giám sát. Tiếp tục tái giám sát đối với những nội dung chậm triển khai hoặc không thực hiện nghiêm túc. Đối với những vấn đề quan trọng, phức tạp, kéo dài thì đề xuất xem xét đưa ra chất vấn, giải trình tại kỳ họp thường lệ của HĐND để làm rõ trách nhiệm các cơ quan liên quan, để vấn đề được giải quyết thỏa đáng, tạo niềm tin của cử tri đối với cơ quan dân cử.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động thẩm tra, giám sát chuyên đề của Ban Dân tộc vẫn gặp một số khó khăn, ảnh hưởng đến chất lượng thẩm tra, giám sát như một số báo cáo, tờ trình, dự thảo nghị quyết của UBND tỉnh gửi về còn chậm so với yêu cầu; một số cơ quan được giao chủ trì soạn thảo chưa chủ động phối hợp với Ban ngay từ đầu quá trình xây dựng dự thảo nên một số vấn đề cần được làm rõ ngay từ đầu không xác định được nên dẫn đến quá trình thẩm tra mất nhiều thời gian (như thẩm quyền, hình thức, thể thức).

Thành viên Ban hoạt động chủ yếu là kiêm nhiệm, mỗi thành viên có năng lực chuyên môn trong lĩnh vực chuyên ngành nhất định. Trong khi đó, chức năng, nhiệm vụ của Ban thuộc địa bàn khó khăn, phức tạp, đa dạng nên có lúc việc phản biện chưa như mong muốn.

Hoạt động giám sát đôi khi chưa rõ nét. Một số kiến nghị đưa ra còn chung chung, chưa nêu cụ thể giải pháp, chưa đưa ra thời gian cụ thể để triển khai thực hiện nên cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát chưa nghiêm túc thực hiện các kiến nghị sau giám sát; việc chuẩn bị tài liệu, hồ sơ gửi trước cho các thành viên nghiên cứu trước các đợt giám sát có lúc chưa đảm bảo thời gian làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả giám sát của Ban; việc sắp xếp thời gian tham gia các đợt giám sát của một số thành viên Ban chưa đầy đủ, liên tục; công tác chuẩn bị, tổng hợp nội dung báo cáo của các đơn vị được giám sát trước khi thực hiện nhiệm vụ giám sát, khảo sát còn gặp khó khăn; việc theo dõi, đôn đốc giải quyết các ý kiến, kiến nghị sau giám sát của Ban chưa quyết liệt. Do vậy, hiệu quả giám sát có lúc chưa đạt như mong muốn.

Để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động thẩm tra và giám sát cần quan tâm, thực hiện đến các giải pháp sau:

Một là, thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp giữa TT HĐND với UBND, UBMTTQ và các cơ quan trong thực thi nhiệm vụ, trong đó chú trọng đén việc tổ chức các kỳ họp và thẩm tra của các Ban, nhất là sự phối hợp giữa các Ban với các cơ quan tham mưu của UBND ngay từ giai đoạn soạn thảo văn bản và chuẩn bị các nội dung trình kỳ họp để Ban có điều kiện được tiếp cận thông tin sớm, có sự trao đổi thường xuyên và điều chỉnh nội dung kịp thời.

Tăng cường giữ mối liên hệ, phối hợp chặt chẽ với Ủy ban MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã hội trong hoạt động giám sát của Ban để hướng đến mục tiêu của cuộc giám sát nhằm giải quyết kịp thời các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn cuộc sống, hoàn thiện hơn các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân.

Hai là, TT HĐND cần chú trọng trong chỉ đạo, điều hòa phân công trách nhiệm thẩm tra cúa các Ban. Cần sớm quyết định, phân công các Ban HĐND tỉnh phối hợp với các cơ quan chuyên môn của UBND để thẩm tra các dự thảo, chủ động tiến hành các hoạt động giám sát, khảo sát để thu thập thông tin thực tiễn có liên quan.

Ba là, không ngừng đổi mới phương thức, hình thức giám sát nhằm đảm bảo thực chất, hiệu quả hướng đến các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có mục tiêu đảm bảo anh sinh xã hội của nhân dân của địa phương. Quá trình giám sát phải tăng cường sự hợp tác giữa cơ quan dân cử với cơ quan, đơn vị thực thi pháp luật; phải đổi mới theo hướng thực chất và hiệu quả, từ việc đề xuất lựa chọn nội dung giám sát đến việc tổ chức Đoàn giám sát, xây dựng chương trình, kế hoạch và triển khai.

Bốn là, Thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức không ngừng để nâng cao năng lực, trách nhiệm, kỹ năng, kinh nghiệm hoạt động thẩm tra, giám sát của đại biểu HĐND các cấp. Đại biểu HĐND cần tăng cường trách nhiệm, thường xuyên tham gia các lớp tập huấn về kỹ năng giám sát; ngoài ra đại biểu kiêm nhiệm cần dành thời gian thỏa đáng cho hoạt động giám sát tăng số lượng chuyên viên giúp việc cho các Ban HĐND tỉnh.

Năm là, nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy giúp việc cho HĐND cấp tỉnh, cấp huyện. Bộ máy tham mưu, giúp việc của HĐND cấp tỉnh, cấp huyện cần được kiện toàn theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả; bố trí đủ số lượng, đảm bảo chất lượng, phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng; có sự liên thông, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, bảo đảm không chồng chéo và phân tán nguồn lực; nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động tham mưu, giúp việc; bố trí hợp lý các điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động giám sát.

Sáu là, thường xuyên theo dõi, giám sát, đôn đốc các cơ quan, đơn vị, địa phương được giám sát thực hiện nghiêm kết luận, kiến nghị giám sát theo lĩnh vực và đơn vị phụ trách; Tham mưu Thường trực HĐND giám sát lại việc thực hiện các kết luận, kiến nghị kết quả giám sát đối với các tổ chức, cá nhân không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, đúng tiến độ các kiến nghị giám sát; tham mưu đưa ra các chế tài đối với các tổ chức, cá nhân không thực hiện kết luận, kiến nghị tái giám sát thông qua việc lấy phiếu tín nhiệm hoặc xử lý hành chính và các biện pháp về tổ chức bộ máy, công tác cán bộ./.