Khoản 1, điều 75, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định phân loại chất thải rắn sinh hoạt theo 3 nguyên tắc: chất thải rắn có khả năng tái sử dụng, tái chế; chất thải thực phẩm; chất thải rắn sinh hoạt khác. Trách nhiệm về quản lý chất thải rắn sinh hoạt của địa phương được quy định tại khoản 2, 6 Điều 75; khoản 2 Điều 76; khoản 1 Điều 77; khoản 2, 6 Điều 78; khoản 6 Điều 79; khoản 5 điều 80 của Luật.

Nghệ An là tỉnh có diện tích rộng, dân số đông, hoạt động kinh tế - xã hội ngày càng sôi động, lượng rác thải sinh hoạt lớn và ngày càng tăng. Qua khảo sát, mỗi ngày tổng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trong toàn tỉnh ước tính khoảng 1.843,58 tấn (tương đương 672.907 tấn/năm). Trong đó, lượng chất thải rắn sinh hoạt tại khu vực đô thị là 626,76 tấn/ngày (tương đương 228.768 tấn/năm), tại khu vực nông thôn là 1.216,82 tấn/ngày (tương đương 444.140 tấn/năm). Đến cuối 2024, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt được thu gom trên địa bàn toàn tỉnh khoảng 1.703,4 tấn/ngày đạt 92,4% (trong đó, tại đô thị 618,71 tấn/ngày đạt 98,7%, nông thôn 1.084,69 tấn/ngày đạt 89,1%). Tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt được xử lý khoảng 1.648,17 tấn/ngày đạt 89,4% (trong đó, tại khu vực đô thị khoảng 611,93 tấn/ngày đạt 97,6%, khu vực nông thôn khoảng 1.036,24 tấn/ngày đạt 85,15%). Tuy nhiên, hầu hết lượng rác thải này đều thực hiện bằng phương pháp chôn lấp hoặc đốt, dẫn đến nguy cơ cao tác động tiêu cực đến môi trường sống và sức khỏe con người.

Đơn cử, tại Khu liên hiệp xử lý chất thải rắn Nghi Yên bình quân tiếp nhận và xử lý 800 tấn rác/ngày đêm, trong điều kiện thời tiết khô ráo bình thường, nước rỉ rác từ quá trình phân hủy ước tính 150m3/ngày đêm, chảy về trạm xử lý có công suất 200m3/ngày đêm thì trong mức an toàn. Tuy nhiên đặc thù bất thường thời tiết của khu vực, vào mùa mưa, nhất là thời điểm lượng mưa lớn, toàn bộ khối lượng nước mưa bề mặt chảy tràn vào hồ chứa dẫn đến quá tải, lượng nước rỉ rác không được xử lý và thoát ra ngoài.
Nguyên tắc phân loại rác đầu nguồn đã được Luật hóa, tuy nhiên còn gặp nhiều bất cập, nếu không nói là chưa hiệu quả. Riêng tỷ lệ phân loại rác tái sử dụng tại Khu xử lý rác lớn nhất tỉnh - Nghi Yên mới chỉ đạt 5%. Nguyên nhân trước hết, có thể thấy ý thức của người dân trong việc phân loại rác đầu nguồn chưa phổ biến, chưa xem đây là trách nhiệm riêng vì mục tiêu chung. Còn thiếu chương trình truyền thông mang tính tổng thể về phân loại rác tại nguồn. Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cho thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải sau phân loại chưa đáp ứng, chưa phù hợp với rác đã được phân loại; chủ yếu áp dụng một phương pháp xử lý cho tất cả rác đã thu gom. Quy trình, công nghệ xử lý rác chưa phù hợp, thiếu đồng bộ...

Việc Quốc hội triển khai giám sát chuyên đề “Thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành” là yêu cầu bắt buộc để các cấp, các ngành liên quan từ trung ương tới địa phương đánh giá lại trách nhiệm của mình, có báo cáo, kiến nghị chính thức vấn đề này. Từ đó, đẩy mạnh các giải pháp căn cơ, tổng thể và khả thi, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và các nguồn lực xã hội để tháo gỡ những bất cập việc thực thi các quy định của pháp luật bảo vệ môi trường, trong đó việc phân loại rác thải sinh hoạt đầu nguồn.
Để việc phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn hiệu quả, có lẽ trước hết phải bắt nguồn từ ý thức, thói quen của người dân – chủ thể của nguồn phát thải. Thay đổi thói quen phân loại rác là một quá trình lâu dài và bền bỉ, nhưng không thể không làm. Trước mắt phải tăng cường tuyên truyền vận động người dân trong thực hiện quy định này. Các địa phương, tổ chức, nhất là các cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học, THCS, THPT, tổ chức chính trị - xã hội đẩy mạnh phát động các phong trào bảo vệ môi trường, thu gom rác tái chế, hình thành thói quen, thái độ ứng xử tích cực đối với môi trường. Thực tế cho thấy, đề án “Tuyên truyền, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia phân loại, xử lý rác thải tại nguồn và hạn chế sử dụng túi ni lông trên địa bàn tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2023-2027” của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh đã và đang mang lại nhiều kết quả rất tích cực, cần được nhân rộng mô hình này nhiều hơn ở các đơn vị, đối tượng khác nhau trong toàn tỉnh.

Cần tập trung ưu tiên thu hút các nhà máy xử lý chất thải trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là phối hợp hỗ trợ chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện Dự án Nhà máy phát điện tại Khu liên hợp xử lý chất thải rắn Nghi Yên. Ưu tiên sử dụng nguồn kinh phí sự nghiệp khoa học công nghệ để thực hiện các sáng kiến, giải pháp tốt về tái chế, tái sử dụng chất thải.
Sớm xây dựng và ban hành quy định giá dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt áp dụng đối với tổ chức, cá nhân phát sinh chất thải rắn sinh hoạt; Quy định về hình thức và mức kinh phí hộ gia đình cá nhân phải chi trả cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt. Một trong những hướng tiếp cận để nghiên cứu, xây dựng khung giá lĩnh vực này là đánh vào “túi tiền” của người dân, gia đình nào phát thải nhiều rác thì mức phí đóng càng cao; gia đình nào không phân loại rác sinh hoạt đầu nguồn thì đơn vị tiếp nhận xử lý rác có quyền từ chối; nếu để rác ùn ứ, gây ô nhiễm trong cộng đồng thì xử phạt.v.v.
Rác thải rắn sinh hoạt là một phần tất yếu của cuộc sống, phân loại rác thải đầu nguồn cần sự vào cuộc mạnh mẽ, quyết liệt của ba chủ thể quan trọng đó là người dân – chính quyền và doanh nghiệp. Thiếu một trong ba mắt xích này thì chắc khó hiệu quả./.”