Hoàn thiện cơ chế pháp lý để Nhân dân trực tiếp quyết định các nội dung trong lập hiến, lập pháp
- Thưa ông, sau 77 năm kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, giai đoạn hiện nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang quyết tâm hiện thực hóa khát vọng “đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Trong đó, một yêu cầu được đặc biệt chú trọng là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Theo ông, đổi mới Quốc hội đặt trong yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN nên được nhìn nhận như thế nào?
- Căn cứ vào Cương lĩnh (sửa đổi năm 2011), Nghị quyết Đại hội XII, XIII của Đảng, trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn của các công trình nghiên cứu trong thời gian qua thì những định hướng chung về đổi mới tổ chức Quốc hội đặt trong yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đã khá rõ.
Trong đó, về định hướng chung, cần tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động Quốc hội theo yêu cầu Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội và các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, cơ chế giám sát, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản biện xã hội của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu, nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách; giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp.
Cần tiếp tục đổi mới nhận thức về tính đại diện của Quốc hội. Tính đại diện của Quốc hội là đại diện của Nhân dân. Theo đó, đại biểu trước hết đại diện cho cử tri bầu ra mình và cử tri cả nước. Cử tri có quyền bãi nhiệm đại biểu khi đại biểu không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của cử tri. Bản chất của tính đại diện này là sự ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm đại diện cử tri của những người đại biểu. Nhân dân ủy quyền cho Quốc hội nhưng Nhân dân không bị mất quyền, Nhân dân vẫn giữ quyền kiểm soát của mình đối với Quốc hội. Do đó, các đại biểu phải chịu trách nhiệm trước cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, báo cáo với những cử tri đã bầu ra mình về các hoạt động của bản thân cũng như các hoạt động của Quốc hội tại kỳ họp. Phải tăng cường trách nhiệm đại diện và tính chuyên nghiệp của đại biểu Quốc hội.
***Sự bài bản, nghiêm túc, cầu thị và dân chủ trong việc lắng nghe, tiếp nhận và tiếp thu tối đa ý kiến hợp lý trong quá trình xây dựng luật, chính sách, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao... của Quốc hội như vừa qua đã thổi một luồng gió mới, góp phần huy động tối đa trí tuệ của giới chuyên gia, của nhân dân tham gia hoạt động của Quốc hội. Như vậy, các quyết sách của Quốc hội không chỉ là sản phẩm của gần 500 đại biểu Quốc hội mà được tổng hợp, chắt lọc tinh túy từ trí tuệ của Nhân dân, chắc chắn sẽ có chất lượng tốt hơn.
GS.TS. PHAN TRUNG LÝ Nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật
- Phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm hoạt động của Quốc hội phản ánh được đầy đủ ý chí của Nhân dân, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, có thể nói, là “kim chỉ nam” trong hoạt động của Quốc hội suốt 76 năm qua. Trong giai đoạn hiện nay, với những yêu cầu mới, theo ông, để thực hiện hiệu quả hơn nữa nguyên tắc này thì cần tập trung đổi mới những vấn đề gì?
- Để tiếp tục phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm hoạt động của Quốc hội phản ánh được đầy đủ ý chí của người dân, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cần xây dựng cơ chế đồng bộ để nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội. Trong đó, đặc biệt quan tâm đến khâu phân tích chính sách, giám sát, phản biện xã hội, lấy ý kiến người dân, ý kiến chuyên gia.
Trong thời gian qua, nhất là trong nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XV, với yêu cầu của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đã hết sức coi trọng và thực hiện có hiệu quả các hoạt động tham vấn chuyên gia, phản biện xã hội, lấy ý kiến của người dân và doanh nghiệp. Trong rất nhiều tọa đàm, hội thảo tham vấn chuyên gia về một số chuyên đề lớn thuộc Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” được Ban Chỉ đạo Trung ương phân công cho Đảng đoàn Quốc hội chuẩn bị và cả các tọa đàm, hội thảo về một số dự án luật lớn, phức tạp được Quốc hội xem xét, quyết định vừa qua mà tôi tham dự đều thấy Chủ tịch Quốc hội và lãnh đạo Quốc hội trực tiếp tham dự, lắng nghe và trao đổi ý kiến một cách rõ ràng, cởi mở.
Có thể nói rằng, sự bài bản, nghiêm túc, cầu thị, dân chủ trong việc lắng nghe, tiếp nhận và tiếp thu tối đa ý kiến hợp lý trong quá trình xây dựng luật, chính sách, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao... của Quốc hội như vừa qua đã thổi một luồng gió mới, góp phần huy động tối đa trí tuệ của giới chuyên gia, của nhân dân tham gia hoạt động của Quốc hội. Như vậy, các quyết sách của Quốc hội không chỉ là sản phẩm của gần 500 đại biểu Quốc hội mà được tổng hợp, chắt lọc tinh tuý từ trí tuệ của Nhân dân, chắc chắn sẽ có chất lượng tốt hơn.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần tiếp tục bảo đảm thực thi và hoàn thiện cơ chế pháp lý để Nhân dân trực tiếp quyết định các nội dung trong hoạt động lập hiến, lập pháp thông qua trưng cầu ý dân về Hiến pháp, về dự thảo luật hoặc việc lấy ý kiến Nhân dân trong quá trình xây dựng luật, pháp lệnh. Tiếp tục đẩy mạnh, tạo điều kiện để Nhân dân tham gia ý kiến trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức đoàn thể của mình, trước hết là MTTQ Việt Nam đối với các dự thảo luật trước khi trình Quốc hội thông qua.
Cần luật hóa phản biện xã hội thành yêu cầu bắt buộc trong quy trình lập pháp
- Ông có đề xuất gì nhằm tiếp tục đổi mới để nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN?
- Tôi được biết, ngay từ đầu nhiệm kỳ Khóa XV, Đảng đoàn Quốc hội đã có chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và thực hiện Nghị quyết số 161/2021/QH14 của Quốc hội Khóa XIV về tổng kết hoạt động nhiệm kỳ Khóa XIV. Chỉ trong năm đầu của nhiệm kỳ, Đảng đoàn Quốc hội đã lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng một loạt Đề án nghiên cứu, đổi mới trong từng lĩnh vực cụ thể, rất bài bản. Nhiều đổi mới đã được áp dụng ngay vào thực tiễn hoạt động của Quốc hội vừa qua và cho thấy rất hiệu quả. Vì thế, chắc chắn, trong thời gian tới, đổi mới của Quốc hội sẽ còn diễn ra mạnh mẽ hơn nữa.
Riêng đối với hoạt động lập pháp, theo tôi vẫn phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quy trình lập pháp. Một thực tế là hiện nay cơ sở pháp lý cho quy trình lập pháp ở nước ta đã khá đầy đủ, hệ thống. Tuy nhiên, yêu cầu tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật ở tầm hiến định và luật định cũng như các văn bản pháp luật có liên quan về quy trình lập pháp vẫn rất cần thiết. Theo đó, cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật đối với từng công đoạn cụ thể trong quy trình lập pháp; lưu ý đến sự phối hợp giữa các chủ thể trong quy trình lập pháp, từ khâu sáng kiến pháp luật đến soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, cho ý kiến và thảo luận, thông qua dự luật tại Quốc hội. Các quy định về cơ chế lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức hữu quan, ý kiến chuyên gia, ý kiến nhân dân về các dự án luật cũng đang rất cần được cụ thể hóa hơn nữa trong pháp luật...
Trong quy trình lập pháp cần đặc biệt chú trọng công đoạn phân tích chính sách, không thể chỉ xem đây là một khâu đơn lẻ, mở đầu. Cần khẳng định rằng, hoạt động phân tích chính sách phải được tiếp tục thực hiện trong cả quá trình soạn thảo đến thẩm tra, cho ý kiến và cả khi Quốc hội thảo luận, thông qua dự thảo luật. Chính vì vậy, hoạt động phân tích chính sách phải được thực hiện ở cả các cơ quan nghiên cứu để đề xuất dự án luật và cả ở các cơ quan của Quốc hội. Bên cạnh đó, do một thực tế là đa phần chính sách trong mỗi dự án luật thường do Chính phủ chuẩn bị trình Quốc hội xem xét, quyết định nên hoạt động phân tích chính sách phải được tiến hành rất cơ bản, thận trọng ở giai đoạn trước khi trình dự án luật. Với tính chất đó, ở một số nước, hoạt động phân tích chính sách thường là do một cơ quan chức năng của Chính phủ hoặc Bộ Tư pháp đảm nhiệm.
Cùng với đó, cần hoàn thiện quy định về phân công trách nhiệm trong khâu tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo luậtgiữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội - cơ quan thường trực của Quốc hội với Chính phủ - cơ quan chịu trách nhiệm chính về chất lượng soạn thảo và trình dự án luật, với Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, cơ quan chủ trì thẩm tra; có sự phân công hợp lý để khắc phục tình trạng buộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội lại phải trực tiếp chịu trách nhiệm của cơ quan chuyên môn nghiệp vụ (lẽ ra là trách nhiệm của Chính phủ, cơ quan trình dự án hoặc của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, cơ quan thẩm tra).
Trong tương lai,cần nghiên cứu xây dựng cơ chế pháp lý nhằm ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm chính trị - pháp lý của các chủ thể trong quy trình lập pháp nói riêng và bộ máy nhà nước nói chung. Bởi mặc dù Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định trách nhiệm pháp lý của các chủ thể liên quan đến quy trình lập pháp nhưng còn khá chung chung và dẫn chiếu sang pháp luật về cán bộ, công chức nhưng thực tế chưa có quy định cụ thể nào trong pháp luật về cán bộ, công chức và các quy định khác của pháp luật có liên quan điều chỉnh chi tiết về trách nhiệm của các chủ thể vi phạm dẫn đến những sai sót trong quy trình lập pháp. Trong khi đó, chúng ta cũng chưa có thực tiễn và văn hóa pháp lý về trách nhiệm chính trị trong quy trình lập pháp. Vì vậy, cần làm rõ hơn nữa các vấn đề này trong pháp luật về cán bộ, công chức và các văn bản pháp luật có liên quan.
- Cùng với hiệu quả mang lại từ các hoạt động phản biện xã hội được Quốc hội yêu cầu đẩy mạnh trong thời gian qua, nhiều ý kiến cũng đề nghị cần xem xét luật hóa vấn đề này trong quy trình lập pháp. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
- Tôi đồng ý và đánh giá cao ý kiến này. Phản biện xã hội đã trở thành nội dung quan trọng của chủ trương phát triển dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Chủ trương đó phải được thể chế hóa thành một yêu cầu bắt buộc trong quy trình lập pháp. Phản biện xã hội là yếu tố quan trọng trong hoạt động lập pháp, vì thực chất, phản biện xã hội là hình thức thể hiện ý kiến của xã hội, của nhân dân đối với hoạt động của Nhà nước về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội… Trong hoạt động lập pháp, phản biện xã hội là sự xem xét, nghiên cứu căn cứ vào chủ trương, đường lối của Đảng để đóng góp ý kiến của nhân dân, của Mặt trận, các tổ chức, đoàn thể, cá nhân đối với dự án luật. Phản biện xã hội được thực hiện từ khâu lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh đến soạn thảo, thẩm tra và thảo luận, thông qua dự thảo luật.
Trong thực tế từ trước đến nay, phản biện xã hội vẫn được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng dưới góc độ pháp lý, hoạt động này chưa được quy định một cách tập trung. Giá trị pháp lý của nó chưa được quy định một cách cụ thể rõ ràng, chưa có một cơ chế cụ thể để xã hội quen dần với các ý kiến khác, thậm chí trái ngược với những quan điểm - được cho là chính thức - của các cơ quan nhà nước.
Đối với hoạt động lập pháp nói chung và đối với một dự án luật nói riêng, phản biện xã hội có ý nghĩa đặc biệt. Đây là hình thức quan trọng để bảo đảm cơ sở xã hội của hoạt động quan trọng bậc nhất thể hiện tính pháp quyền này của Nhà nước. Cũng vì tính đặc biệt của nó nên không giống với các lĩnh vực hoạt động khác, phản biện xã hội đối với hoạt động lập pháp phải căn cứ vào chủ trương, đường lối của Đảng và các tiêu chí đánh giá cụ thể về sự điều chỉnh pháp luật nói chung và đối với từng quy định pháp luật, từng văn bản quy phạm pháp luật nói riêng.
Vì vậy, nội dung phản biện xã hội phải được quy định thành một chương riêng trong Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, hoặc cũng có thể hình thành một luật riêng về vấn đề này với tên gọi Luật về phản biện xã hội. Phải tổ chức thực hiện tốt để phản biện xã hội của Mặt trận trở thành một trong những cơ chế hữu hiệu bảo đảm tính nhân dân trong hoạt động lập pháp.
- Xin cảm ơn ông!
Quỳnh Chi thực hiện