Năm 1960 là một cột mốc đáng nhớ trong lịch sử dân tộc.
Đó là năm Miền Bắc thật sự bắt tay vào xây dựng CNXH, thiên đường trong mơ ước của cả dân tộc sau chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, sau 5 năm khắc phục hậu quả chiến tranh.
Đó là năm chiến lược giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước đã được hoạch định một cách rõ ràng.
Lần đầu tiên, ĐH của Đảng (ĐH III) diễn ra giữa Thủ đô trong không khí phơi phới của tự do và hòa bình, đã đánh giá tình hình thời điểm đó như sau: “Nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, nhờ nhân dân ta nồng nàn yêu nước và cần cù lao động, nhờ Liên-xô, Trung-quốc và các nước anh em khác hết lòng giúp đỡ, miền Bắc chúng ta đã vượt qua nhiều khó khǎn, khôi phục và phát triển kinh tế, vǎn hoá, bǎng bó những vết thương chiến tranh, xoá bỏ những tàn tích thực dân và phong kiến trong nền kinh tế quốc dân. Chúng ta đang hoàn thành kế hoạch 3 nǎm cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển vǎn hoá; công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội đang giành được những thắng lợi to lớn. Cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào miền Nam chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, mặc dù bị khủng bố rất dã man, vẫn giữ vững và không ngừng mở rộng. Sự nghiệp đấu tranh của nhân dân cả nước ta nhằm thực hiện thống nhất nước nhà đang phát triển mạnh mẽ”. Và đề ra hai nhiệm vụ chiến lược: “Đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, củng cố miền Bắc thành cơ sở ngày càng vững chắc cho cuộc đấu tranh giành thống nhất Tổ quốc; ra sức hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị tàn bạo của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai; thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt-nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
Hai nhiệm vụ đó thể hiện ý chí, nguyện vọng của toàn dân, tạo ra sức mạnh cả nước một lòng.
Là người sống trong thời kỳ đó, tôi cảm nhận được thế nào là “CNXH tươi hồng”. Một không khí phấn chấn tỏa lan khắp xã hội. Con người sống đến sự tận thiện. Mọi người ra khỏi nhà không cần khóa cửa, không ai vi sơ đến của công, ai cũng nghĩ đến cần làm việc tốt, giúp đỡ người khác là một hạnh phúc y như thời Nghiêu Thuấn. Sự kỳ diệu của CNXH, sức mạnh của chế độ mới được thể hiện bằng những con số đáng kinh ngạc. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961-1965, thật ra chỉ thực hiện được đến năm 1964 thì cả nước bước vào chiến tranh; nhưng kết quả đạt được hết sức to lớn. Nền móng công nghiệp nặng được hình thành với khu gang thép Thái Nguyên, thủy điện Thác Bà, nhiệt điện Uông Bí, cơ khí trung quy mô, supe phốt phát Lâm Thao...; công nghiệp nhẹ có Dệt 8-3, Cao – Xà – Lá Thượng Đình (cao su, xà phòng, thuốc lá) và nhiều cơ sở khác. Giá trị sản lượng công nghiệp nặng năm 1965 tăng 3 lần so với 1960, công nghiệp quốc doanh chiếm tỷ trọng 93% tổng giá trị sản lượng. Công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp giải quyết 80% nhu cầu hàng tiêu dùng thiết yếu của nhân dân.
Nhờ thủy lợi, nhờ sản xuất hợp tác, lần đầu tiên, trên đồng ruộng Việt Nam, năng suất đạt 5 tấn rồi 10, 11 tấn thóc trên 1 ha. Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 4,1%/năm, đáp ứng đủ nhu cầu về lương thực, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và có xuất khẩu.
Nếu như gạo cung cấp Nhà nước bán cho cán bộ là 4 hào/kg thì gạo ở các chợ quê còn rẻ hơn và điều này đã không bao giờ còn lặp lại.
Tôi nghĩ rằng, các nhà chính trị, các nhà sử học, các nhà kinh tế học còn cần nghiên cứu nhiều về giai đoạn này để thấy rõ hơn ưu việt và sức mạnh của CNXH, về phương cách đánh thức tiềm năng, tiềm lực của đất nước.
Mừng Xuân mới năm 1961, Bác Hồ viết “Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh”.
Trong sự tin tưởng, phấn chấn dạt dào ấy, trên đỉnh cao của tầm nhìn phát triển, Tố Hữu đã viết nên một tráng khúc, một bài ca trữ tình bất hủ thể hiện trọn vẹn không khí thời đại, tình cảm Bắc – Nam, nhiệm vụ cách mạng, sự phấn chấn của lòng người trước tương lai tươi sáng, trong hạnh phúc riêng chung hòa quyện. Khúc tráng ca ấy mang tên “Bài ca Mùa Xuân 1961”.
Tôi viết bài thơ xuân
Nghìn chín trăm sáu mốt
Cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt
Nắng soi sương giọt long lanh...
Rét nhiều nên ấm nắng hanh
Đắng cay lắm mới ngọt lành đó chăng?
Giã từ năm cũ bâng khuâng
Đã nghe xuân mới lâng lâng lạ thường!
***
Chào xuân đẹp! Có gì vui đấy
Hỡi em yêu? Mà má em đỏ dậy
Như buổi đầu hò hẹn, say mê
Anh nắm tay em, sôi nổi, vụng về
Mà nói vậy: "Trái tim anh đó
Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ:
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Phần cho thơ, và phần để em yêu..."
Em xấu hổ: "Thế cũng nhiều anh nhỉ!"
Rồi hai đứa hôn nhau, hai người đồng chí
Dắt nhau đi, cho đến sáng mai nay
Anh đón em về, xuân cũng đến trong tay!
***
Ôi tiếng hót vui say con chim chiền chiện
Trên đồng lúa chiêm xuân chao mình bay liệng
Xuân ơi xuân, vui tới mông mênh
Biển vui dâng sóng trắng đầu ghềnh
Thơ đã hát, mát trong lời chúc:
Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh
Tam Đảo, Ba Vì vui núi xuân xanh...
Chào 61! Đỉnh cao muôn trượng
Ta đứng đây, mắt nhìn bốn hướng
Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau
Trông Bắc trông Nam, trông cả địa cầu!
Trải qua một cuộc bể dâu
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình
Nổi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều!
Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu
Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng...
Ôi tiếng của cha ông thuở trước
Xin hát mừng non nước hôm nay:
Một vùng trời đất trong tay
Dẫu chưa toàn vẹn, cũng bay cờ hồng!
Việt Nam, dân tộc anh hùng
Tay không mà đã thành công nên người!
Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau
Đảng cho ta trái tim giàu
Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay!
***
Đời vui đó, hôm nay mở cửa
Như dãy hàng bách hoá của ta
Hỡi những người yêu, hãy ghé mua hoa
Và đến đó, sắm ít quà lễ cưới:
Lụa Nam Định đẹp tươi mát rượi
Lược Hàng Đào chải mái tóc xanh!
Ta còn nghèo, phố chật nhà gianh
Nhưng cũng đủ vài tranh treo Tết...
Đời vui đó, tiếng ca Đoàn kết
Ta nắm tay nhau xây lại đời ta
Ruộng lúa, đồng khoai, nương sắn, vườn cà
Chuồng lợn, bầy gà, đàn rau, ao cá
Dọn tí phân rơi, nhặt từng ngọn lá
Mỗi hòn than, mẩu sắn, cân ngô
Ta nâng niu gom góp dựng cơ đồ!
***
Ồ thích thật, bài thơ miền Bắc
Rất tự do nên tươi nhạc, tươi vần
Cả không gian như xích lại gần
Thời gian cũng quên tuần quên tháng.
Đời trẻ lại. Tất cả đều cách mạng!
Rũ sạch cô đơn, riêng lẻ, bần cùng
Quê hương ta rộn rã cuộc vui chung
Người hợp tác nên lúa dày thêm đó.
Đường nở ngực. Những hàng dương liễu nhỏ
Đã lên xanh như tóc tuổi mười lăm
Xuân ơi Xuân, em mới đến dăm năm
Mà cuộc sống đã tưng bừng ngày hội
Như hôm nay, giữa công trường đỏ bụi
Những đoàn xe vận tải nối nhau đi
Hồng Quảng, Lào Cai, Thái Nguyên, Việt Trì
Tên đất nước reo vui bao tiếng gọi...
***
Nào đi tới! Bác Hồ ta nói
Phút giao thừa, tiếng hát đêm xuân
Kế hoạch năm năm. Mời những đoàn quân
Mời những bàn chân, tiến lên phía trước.
Tất cả dưới cờ, hát lên và bước!
Đi ta đi! Khai phá rừng hoang
Hỏi núi non cao, đâu sắt đâu vàng?
Hỏi biển khơi xa, đâu luồng cá chạy?
Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy
Hỏi đâu thác nhảy, cho điện quay chiều?
Hỡi những người trai, những cô gái yêu
Trên những đèo mây, những tầng núi đá
Hai bàn tay ta hãy làm tất cả!
Xuân đã đến rồi. Hối hả tương lai
Khói những nhà máy mới ban mai...
***
Tôi viết cho ai bài thơ 61?
Đêm đã khuya rồi, rét về tê buốt
Hà Nội rì rầm... Còi thổi ngoài ga
Một chuyến tàu chuyển bánh đi xa
Tiếng xình xịch, chạy dọc đường Nam Bộ...
Ôi đâu phải con tàu! Trái tim ta đó
Tiếng đập thình thình, muốn vỡ làm đôi!
Ta biết em rất khoẻ, tim ơi
Không khóc đấy. Nhưng sao mà nóng bỏng
Như lửa cháy trong lòng ta gió lộng?
Mấy hôm nay, như đứa nhớ nhà
Ta vẩn vơ hoài, rạo rực, vào ra
Nghe tiếng mõ và nghe tiếng súng
Miền Nam dậy, hò reo náo động!
Ba con tôi đã ngủ lâu rồi
Còn bao nhiêu chưa được ngủ trong nôi
Miền Bắc thiên đường của các con tôi!
Gà gáy sáng. Thơ ơi, mang cánh lửa
Hãy bay đi! Con chim kêu trước cửa
Thêm một ngày xuân đến. Bình minh
Cành táo đầu hè quả ngọt rung rinh
Như hạnh phúc đơn sơ, ước mơ nho nhỏ
Treo trước mắt của loài người ta đó:
Hoà bình
Ấm no
Cho
Con người
Sung sướng
Tự do!
Bài thơ này ngay sau đó được nghệ sĩ Châu Loan ngâm trên Đài TNVN và đăng lần đầu trên báo Nhân Dân số Tết Tân Sửu, ngày 15-2-1960, sau đó được đưa vào tập Gió lộng (NXB Văn học, 1961) và sách giáo khoa.
Từ năm 1939 cho đến khi qua đời (2002), Tố Hữu viết hàng chục bài thơ xuân như Ý xuân, Xuân đến, Xuân nhân loại, Trên miền Bắc mùa xuân, Bài ca mùa xuân 1961, Giữa ngày xuân, Tiếng hát sang xuân, Xuân sớm, Chào xuân 67, Bài ca xuân 68, Xuân 69, Bài ca xuân 71, Xtalingrat - một ngày xuân, Với Đảng mùa xuân, Một khúc ca xuân... nhưng hay nhất, theo tôi, là Bài ca Mùa xuân 1961. Từ bài thơ này, lứa học sinh chúng tôi bắt đầu thi nhau học thuộc thơ xuân Tố Hữu qua làn sóng Đài TNVN.
***
Nhà Tố Hữu ở 76 Phan Đình Phùng, Hà Nội, góc giáp Nguyễn Biểu. Trước sân, phía bên trái có một cây táo rất cao.
Mở đầu bài thơ là một trực quan sinh động, từ sáng xuân nhìn chùm táo ngọt, đến những giọt sương long lanh, tác giả đã nói lên một dự cảm, dự báo về một tương lai ngọt ngào, tươi sáng: Cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt/ Nắng soi sương giọt long lanh...
Bài thơ được viết bởi một nội lực phi thường, một niềm hân hoan tràn ngập. Nội lực ấy, sự hân hoan ấy của một con người – tác giả cũng chính là nội lực, sự hân hoan của thời đại.
Bài thơ chất chồng cảm xúc, khoáng đạt về thi pháp, phong phú, linh hoạt về hình thức.
Nhà thơ Tố Hữu từng tâm sự: Tôi làm thơ thường bị cuốn theo cảm xúc, câu trước hô gọi câu sau. Bài thơ này thể hiện rõ phong cách ấy. Mạch thơ, tứ thơ đi từ nhìn đến nghĩ, hay nói cách khác là đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ “tôi” đến “ta” và ngược lại, từ mùa xuân đến người yêu, từ tình yêu đến Đảng, từ thiên nhiên đến cách mạng, từ thành quả cách mạng đến Đảng, Bác Hồ; từ hôm nay nhìn về tương lai đến quá khứ... tóm lại, nhất thể hóa, đồng hóa được hiện thực trong cảm xúc trào dâng mạnh mẽ vào một hệ thống hình ảnh, hình tượng kỳ vĩ, rộn rã tươi vui mang tính hiện thực và ước mơ về cái đẹp. Thể thơ phong phú, từ từ do chuyển qua lục bát một cách ngọt ngào. Có thể nói đây là bức tranh sống động, toàn bích về đất nước những năm đầu thập niên 60 và tâm hồn con người thời kỳ đầu CNXH ở nước ta.
Người Việt Nam luôn tha thiết tình yêu, trước hết là tình yêu gia đình, tình yêu đôi lứa. Người Việt Nam cách mạng không khác thế, mà lại còn đậm sâu hơn thế, bởi làm cách mạng để có tình yêu trong tự do chứ không phải để diệt vong tình yêu ấy. Cái tài tình, tài tình một cách tự nhiên của Bài ca mùa xuân 1961 là sau dự báo, đến ngay những câu thơ tự nhiên và giàu năng lượng, cuốn hút say mê về tình yêu: Chào xuân đẹp! Có gì vui đấy/ Hỡi em yêu? Mà má em đỏ dậy/ Như buổi đầu hò hẹn, say mê...
Tác giả viết tiếp: Mà nói vậy: "Trái tim anh đó/ Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ:/ Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều/ Phần cho thơ, và phần để em yêu”. Sau này, nhiều người chê sao nhà thơ lại “cơ học” đến thế, đi chia tim mình thành ba phần mà lại không đều nhau. Riêng tôi thấy, suốt hai thế kỷ qua, thì đoạn thơ này là đoạn được nhiều người thuộc nhất, và “những người bình dân” không ai băn khoăn một cách cơ học như trên. Bản thân tôi cũng cảm thụ một cách tự nhiên: Người Việt, nhất là nam nhi truyền thống, bao giờ cũng để nghĩa nước trên tình nhà, để sự nghiệp chung trên hạnh phúc riêng trong và đó là một kiểu hài hòa của người Việt yêu nước. Tôi cũng yêu hai câu thơ tiếp theo rất đẹp: Em xấu hổ: "Thế cũng nhiều anh nhỉ!"/ Rồi hai đứa hôn nhau, hai người đồng chí. “Đồng chí” xưa là một khái niệm thiêng liêng, cao đẹp, gần gụi với tình yêu. Hai người đồng chí càng làm đẹp lên, cao lên tình yêu!
Mạch thơ tiếp tục được triển khai từ bên trong đến bên ngoài, từ cái tôi đến cái ta. Cái vui của con người, của những đồng vàng tít tắp, làm vui say tiếng hót con chim chiền chiện, mùa xuân lòng người làm đẹp thêm mùa xuân đất trời. Rồi tác giả xác lập vị thế: Chào 61! Đỉnh cao muôn trượng/ Ta đứng đây, mắt nhìn bốn hướng/ Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau/ Trông Bắc, trông Nam, trông cả địa cầu!
Từ điểm nhìn cao, xa, rộng ấy, tác giả thấy gì? Trước hết là thế sống của con người, thế đứng của dân tộc. Đoạn thơ này như một châm ngôn:
“Từ nhà ra ngõ”, những đoạn tiếp theo là tầng tầng lớp lớp những hình ảnh tươi vui, ríu rít, quấn quýt giữa cảnh và người: Lụa Nam Định đẹp tươi mát rượi/ Lược Hàng Đào chải mái tóc xanh!/ Ta còn nghèo, phố chật nhà gianh/ Nhưng cũng đủ vài tranh treo Tết... Đặc biệt là sự phổng phao, lớn dậy của cuộc sống mới khi mà đất nước, tập thể gắn kết chặt chẽ mọi cá nhân được thể hiện tài tình qua hình ảnh người con gái tuổi trăng rằm: Quê hương ta rộn rã cuộc vui chung/ Người hợp tác nên lúa dày thêm đó/ Đường nở ngực. Những hàng dương liễu nhỏ/ Đã lên xanh như tóc tuổi mười lăm… Những con đường nở ngực, những con đường rộn rã xe qua, những cánh tay như đôi cánh bay lên… đã làm cho cuộc sống tưng bừng ngày hội.
Chào 61, đỉnh cao muôn trượng , một cuộc sống xây dựng, cuộc sống tin tưởng, hồ hởi, nhiều thành tựu – đến nay vẫn là một đỉnh cao; bài thơ cũng là một đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.
Những năm 20 này của thế kỷ 21, có nhiều điều khác, nhưng có một điều giống với những năm 60 của thế kỷ 20: Đất nước đứng trước yêu cầu mới, cần dốc toàn lực để thực hiện khát vọng thiêng liêng: đưa nước ta phát triển thành một đất nước phồn vinh, đem lại cho mỗi người một cuộc sống thật sự tự do, hạnh phúc như định hướng NQ ĐH XIII của Đảng.
Đọc lại “Bài ca Mùa xuân 1961”, ta tìm được cho mình những câu trả lời. Đó là thức dậy những tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên con người; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh toàn dân là một:
Với một niềm tin vừa được củng cố, biến thành một niềm tin tuyệt đối như thời những năm 60, sẽ tạo thành một khí thế mới, sức mạnh mới. Hướng tới kỷ niệm 100 năm Ngày lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hướng tới hạnh phúc của chính mình, Tất cả dưới cờ, hát lên và bước!
Thơ Tố Hữu vẫn cùng ta đi lên trong cuộc sống mới. Gửi gắm của nhà thơ
Cho
Con người
Sung sướng
Tự do!
phải là hành động của hôm nay, bắt đầu từ ánh vinh quang của ngọn cờ Cách mạng Tháng Tám!
TS Nguyễn Sĩ Đại