%C4%90%E1%BA%A2NG-C%E1%BB%98NG-S%E1%BA%A2N.jpg

Ảnh minh họa: Nguồn internet

Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng gồm đổi mới nội dung lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo.

1. Đổi mới nội dung lãnh đạo

Đảng thực hiện đổi mới nội dung lãnh đạo đối với cơ quan dân cử hiện nay là trên cơ sở đường lối chiến lược hoạt động của cơ quan dân cử theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đó là: Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động; phát huy dân chủ, tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động thực hiện các chức năng lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Xây dựng và hoàn thiện một hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch và ổn định; nâng tầm hiệu lực và hiệu quả của hoạt động giám sát, bảo đảm là cơ sở quan trọng nhất đối với việc kiểm soát quyền lực của hành pháp và tư pháp; và quyết định chính xác nhất những vấn đề trọng đại của quốc gia. Đối với chính quyền địa phương là tiếp tục hoàn thiện tổ chức phù hợp với từng địa bàn nông thôn, đô thị và hải đảo[1]

Để thực hiện có hiệu quả những yêu cầu mà Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ đạo, trong thực thi nhiệm vụ của cơ quan dân cử, Đảng cần lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan này nghiên cứu thưc hiện có chất lượng và hiệu quả hơn nữa các chức năng, nhiệm vụ cơ bản của mình:

-Đảng lãnh đạo đổi mới việc xây dựng và hoàn thiện một hệ thống pháp luật với các tính chất đã được xác định:

Sau khi rút ra những tồn tại của công tác lập pháp là “Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn... chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe”[2], Văn kiện Đại hội XIIIcủa Đảng đã xác đinh (có tính khẳng định), phải xây dựng và hoàn thiện một hệ thống pháp luật với tám tính chất đặc trưng: đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch và ổn định.

Đây là nhiệm vụ rất nặng nề và phức tạp. Bởi vậy, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua Đảng Đoàn Quốc hội đã và đang lãnh đạo, chỉ đạo rất quyết liệt công việc trọng đại này. Tại Kết luận số 19-KL/TW, ngày 14/10/2021, Bộ Chính trị đã quyết định bổ sung một tính chất nữa vào hệ thống pháp luật, đó là có sức cạnh tranh quốc tế. Trong điều kiện đất nước hội nhập sâu rộng, luật pháp phải có sức cạnh tranh quốc tế, đó là quyết định đúng đắn và chính xác. Đây là lần đầu tiên, Đảng ta chỉ đạo định hướng Chương trình xây dựng pháp luật cho cả một nhiệm kỳ thay vì xây dựng ngay “Chương trình cứng” như nhiều khóa trước mà chưa đủ cơ sở thực tiễn vững chắc nên phải điều chỉnh liên tục theo tình hình mới phát sinh. Nhiệm kỳ này, theo sự lãnh đạo của Đảng Đoàn Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã tổ chức hội nghị toàn quốc triển khai Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15, ngày 5/11/2021 về thực hiện Kết luận số 19KL-TW của Bộ Chính trị và Đề án Định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV. Kế hoạch gồm 137 nhiệm vụ, trong đó có 71 nhiệm vụ nghiên cứu, rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết hiện hành; 38 nhiệm vụ cần nghiên cứu, xây dựng luật mới, pháp lệnh, nghị quyết mới. Các nhiệm vụ này được phân công cụ thể cả nội dung và tiến độ tới từng chủ thể có quyền sáng kiến pháp luật. Các chủ thể trong quy trình xây dựng luật ngay từ bây giờ phải quán triệt và thực hiện cho được những “lưu ý” có tính chất giải pháp của Kết luận 19-KL/TW để góp phần nâng tầm chất lượng lập pháp lên một tầm cao mới, những “lưu ý” đó là:

Trước hết, việc xây dựng, ban hành luật phải thận trọng, chắc chắn, làm tốt từng khâu, đạt yêu cầu cao về chất lượng, không chạy theo số lượng, phải bám sát và kịp thời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn... Giải pháp này xuất phát từ thực tế: Bước vào Công cuộc đổi mới, từ nền kinh tế kế hoạch hóa chỉ huy chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta phải xây dựng lại một hệ thống luật pháp hoàn toàn mới về nội dung. Những năm đầu đổi mới phải nhanh chóng “sản xuất” ra hàng loạt các đạo luật để đáp ứng “tức thời” việc điều hành một nền kinh tế đang chuyển đổi nhanh chóng. Nay với hơn 250 luật và bộ luật đang có hiệu lực thi hành, về số lượng như thế là tương đối đầy đủ, bây giờ phải đặc biệt chú ý tới chất lượng, tính khả thi. Phương châm là, chất lượng, chất lượng và chất lượng (Một đạo luật được thông qua phải bảo đảm cả chất lượng hình thức và cả chất lượng nội dung. Chất lượng hình thức bao gồm các tiêu chí: tính thống nhất, đồng bộ trong cơ cấu của đạo luật và giữa đạo luật đó với hệ thống pháp luật hiện hành; bảo đảm tính chính xác, chặt chẽ về hình thức; tính rõ ràng, dễ hiểu về cách thể hiện. Chất lượng nội dung bao gồm các tiêu chí: phải thể hiện đúng đắn ý chí và nguyện vọng của cử tri, của Nhân dân lao động; nội dung ý chí, nguyện vọng thể hiện trong đạo luật phải phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội khách quan trong thời gian đạo luật ra đời; phải phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng; nội dung luật phải hợp hiến, hợp pháp; nội dung điều chỉnh các quan hệ xã hội phải phù hợp với mục đích đặt ra; nội dung điều chỉnh phải rõ ràng, minh bạch, ổn định và có thể dự đoán trước những vấn đề sẽ xảy ra, tuổi thọ của luật phải tương đối dài; và phải phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là một thành viên).

Hai là, theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, hệ thống pháp luật phải bảo đảm 9 tính chất (kể cả tính cạnh tranh quốc tế) lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, của doanh nghiệp làm trọng tâm; tăng cường giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước; thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Trong đó, đặc biệt lưu ý tính khả thi tính thống nhất của hệ thống pháp luật (hai tính chất này, hiện nay có thể nói là còn yếu). Ba là, tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng luật, tăng cường tính chủ động của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội trong công tác lập pháp. Phát huy tính năng động, tích cực, vai trò, ý thức trách nhiệm của các chủ thể, nhất là người đứng đầu, đặc biệt là Chính phủ - chủ thể trình phần lớn các dự án luật. Hơn ai hết, những chủ thể tham gia xây dựng pháp luật phải là những người đi đầu trong thượng tôn pháp luật (thượng tôn pháp luật phải được thực thi nghiêm túc ngay từ khi xây dựng luật).

Thứ tư là, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật, nhất là đối với các bộ, ngành của Chính phủ...

Mục tiêu xây dựng hệ thống luật pháp nêu trên không chỉ cho nhiệm kỳ này, mà cho cả nhiệm kỳ sau và tầm nhìn đến năm 2045. Để từng bước đạt được mục tiêu đó, trên phương diện lãnh đạo lập pháp, Đảng cần chỉ đạo cụ thể hơn nữa đối với từng ngành luật trong từng giai đoạn. Vì rằng, trong hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam bao gồm nhiều ngành luật có nội dung, có phạm vi điều chỉnh, có đối tượng áp dụng rất khác nhau và rất phức tạp (Luật Hiến pháp, luật hành chính, luật tài chính, luật đất đai, luật dân sự, luật hình sự, luật tố tụng dân sự, luật tố tụng hình sự, luật hôn nhân và gia đình, luật lao động, luật kinh tế, luật quốc tế). Mỗi ngành luật ngoài yêu cầu chung lại có những yêu cầu riêng; trong mỗi ngành luật lại có khá nhiều luật khác nhau với yêu cầu khác nhau. Do đó, rất cần có định hướng riêng cho mỗi ngành luật. Mặt khác, lập pháp của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có những đặc điểm riêng, ví dụ, nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” thì bất kỳ ngành luật nào, dự án luật nào cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc này, do đó phải có sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng... Như chúng ta đã biết, Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược và bằng chủ trương chính sách lớn, bằng nghị quyết, quyết định, bằng chỉ thị, quy định và kết luận của Đảng. Do đó, các văn bản như là “pháp luật” của Đảng càng khoa học, càng hoàn thiện, càng cụ thể, càng minh bạch và càng phù hợp với thực tiễn khách quan của đất nước thì việc Quốc hội thể chế hóa thành các văn bản pháp luật của Nhà nước càng đúng đắn, càng tạo điều kiện đạt được 9 tiêu chí (tính chất) của hệ thống pháp luật mà Đảng đang chỉ đạo và từ đó càng tạo ra khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội với độ chính xác ngày càng cao, hiệu lực, hiệu quả ngày càng lớn.

- Đảng lãnh đạo đổi mới hoạt động giám sát

Cơ quan dân cử phải phát huy hơn nữa tác dụng của các hình thức giám sát có hiệu quả cao, đó là hoạt động chất vấn và lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm. Song có thể đổi mới một bước nữa: trong điều kiện ráo riết phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thì trong một nhiệm kỳ có thể lấy phiếu tín nhiệm ít nhất 2 lần (như nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII đã thực hiện) và nên xem xét chỉ quy định 2 mức, tín nhiệm và không tín nhiệm. Tiếp theo là thực hiện bỏ phiếu tín nhiệm (cũng có thể 2 lần trong một nhiệm kỳ nhưng một lần lấy phiếu, một lần bỏ phiếu tín nhiệm). Việc lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm nên tiến hành sau hoạt động chất vấn tổng thể (khi mà tất cả các chức danh theo luật định đã trả lời chất vấn). Đồng thời, phải phát huy các hình thức giám sát tối cao khác để bảo đảm tính đồng bộ và cộng hưởng kết quả hiệu lực, hiệu quả giữa các hình thức giám sát. Trong đó, Quốc hội cần phát huy việc sử dụng Ủy ban lâm thời như một công cụ kiểm soát quyền lực vào những vụ việc cấp thiết.

Để góp phần tích cực vào công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Quốc hội hoàn toàn có thể sử dụng biện pháp thành lập Ủy ban lâm thời theo khoản 3 Điều 66 và các Điều 88, 89 Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành để góp phần xử lý nhiều vụ việc trong các lĩnh vực đất đai, môi trường, các nhóm trục lợi, tham nhũng... Sử dụng Ủy ban lâm thời sẽ hiệu lực, hiệu quả hơn nhiều so với giám sát bằng các hình thức khác, vì Ủy ban lâm thời có quyền điều tra làm rõ những vấn đề, những vụ việc cụ thể (chứ không chỉ giám sát xem có thực thi đúng chính sách, pháp luật hay không).

Nếu như ở hoạt động lập pháp, từ rất sớm, Đảng đã có Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược lập pháp và đã đem lại hiệu quả thiết thực, thì nay ở hoạt động giám sát, Đảng cũng cần có một Nghị quyết về Chiến lược hoạt động giám sát, vì đây là một chức năng có phạm vi rất rộng lớn. Hoặc cao hơn là Nghị quyết về Chiến lược hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán cho cả hệ thống chính trị. Trong lúc “nước sôi, lửa bỏng” của công cuộc đấu tranh kiên quyết, kiên trì với tham nhũng, tiêu cực, rất cần một nghị quyết như thế của Đảng. Mặt khác, đối với cơ quan dân cử dù đã có nhiều tiến bộ trong hoạt động giám sát, nhưng về hiệu quả còn có khoảng cách xa so với lập pháp nên rất cần có một nghị quyết chỉ đạo chiến lược thúc đẩy, “xốc lên” công tác này.

Trở lại hình thức giám sát lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, Đảng đã có Quy định số 262-QĐ/TW về lấy phiếu tín nhiệm, thì bây giờ rất cần thiết có một quy định của Đảng về bỏ phiếu tín nhiệm để Quốc hội thực hiện trọn vẹn nhiệm vụ thứ 8 tại Điều 70 của Hiến pháp năm 2013, “Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn” và khoản 1 Điều 89 Luật Tổ chức chính quyền địa phương, “Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu”. Đây cũng là một giải pháp góp phần sớm phát hiện và xử lý những người giữ chức vụ có sự yếu kém trong bộ máy nhà nước.

- Đảng lãnh đạo đổi mới các quyết định về các vấn đề quan trọng của đất nước

Cơ quan dân cử đã có nhiều đổi mới trong việc quyết định những vấn đề trọng đại, thể hiện rõ nhất là sự thận trọng, cân nhắc, tranh luận, tiếp cận từ nhiều chiều, nhiều hướng, dưới nhiều góc độ để tìm ra phương án tối ưu, khả thi nhất cho mỗi vấn đề. Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ này còn phải tiếp tục nghiên cứu đổi mới nhiều quyết định cụ thể khác, trước mắt là những quyết định về các dự án, các công trình quan trọng quốc gia thuộc trách nhiệm của Quốc hội. Hiện nay và sắp tới có khá nhiều dự án, công trình loại này, đi theo đó là phải giải ngân vốn đầu tư công với khối lượng lớn. Có thể sớm đổi mới hai vấn đề:

Một là, quy định giá trị đầu tư của dự án, công trình: tại Nghị quyết số 66/2006/QH11 ngày 29-6-2006, Quốc hội khóa XI đã quy định dự án, công trình quan trọng quốc gia là loại công trình có giá trị đầu tư từ 20 nghìn tỷ đồng trở lên, trong đó có 30% vốn của Nhà nước trở lên. Đến ngày 19/6/2010, tại Nghị quyết số 49/2010/QH12, Quốc hội khóa XII đã quyết định nâng lên mức từ 35 nghìn tỷ đồng trở lên, trong đó vốn nhà nước từ 11 nghìn tỷ đồng trở lên. Do trượt giá nhanh nên ở nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV, được biết Chính phủ tiếp tục trình nâng mức đầu tư cho các dự án, công trình này lên cao hơn nữa, nhưng Quốc hội chưa nhất trí. Có lẽ trong điều kiện trượt giá nhanh thì không nên quy định bằng con số tuyệt đối mà quy định bằng con số tương đối (%) theo phương án “nước lên, thuyền lên”, bằng cách so sánh giá trị mức đầu tư của dự án, công trình với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của năm đó nếu đã dự lượng được (hoặc của năm liền kề trước đó nếu đã xác định được), thì số % tính được sẽ là mức quy định của công trình quan trọng quốc gia từ năm đó trở đi. Quy định bằng con số tương đối (%), dù có trượt giá bao nhiêu thì Quốc hội cũng không phải sửa đổi hay ban hành nghị quyết mới mà vẫn bảo đảm độ tin cậy.

Hai là, trong điều kiện “tấc đất, tấc vàng”, “tam sơn, tứ hải, nhất phần điền”, “trời sinh nhân, bất sinh địa” thì các dự án, công trình quan trọng quốc gia trên một địa điểm xác định (trừ các dự án đường bộ, đường sắt xuyên vùng, xuyên miền) cũng phải hết sức tiết kiệm đất đai (theo Nghị quyết số 49-NQ/2010/QH12 thì có những dự án, công trình chiếm tới 500 đến 1.000 ha đất và có thể nhiều hơn nữa, như thế là quá lớn. Đặc biệt là phải bảo vệ được môi trường (phải hết sức nghiêm ngặt trong đánh giá tác động của dự án, công trình)... Những vấn đề nêu trên phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng bằng những chỉ thị, nghị quyết cụ thể, nhất là sắp tới sau khi sửa đổi Luật Đất đai và nhiều luật khác có liên quan tới đất đai.

- Đảng lãnh đạo tiếp tục đổi mới tổ chức của cơ quan dân cử cho xứng tầm nhiệm vụ

Vào cuối nhiệm kỳ này (năm 2025), Đảng lãnh đạo việc sửa đổi các luật tổ chức bộ máy nhà nước để xử lý một số vấn đề cấp thiết cho nhiệm kỳ mới (2026-2031) và các nhiệm kỳ sau. Đối với việc sửa đổi Luật Tổ chức Quốc hội: Như đã trình bày, thế giới đang tồn tại 3 mô hình về số lượng cơ quan thường trực của Nghị viện (Quốc hội); đó là số lượng các cơ quan thường trực của Quốc hội nhiều hơn, ngang bằng và ít hơn so với số lượng các bộ, ngành của Chính phủ (Nội các). Số cơ quan thường trực của Quốc hội nước ta hiện nay là 10 so với 22 bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ chỉ bằng khoảng 45%, trong khi nhiều Ủy ban đang quá tải công việc như Ủy ban Xã hội; Ủy ban Văn hóa, Giáo dục; Ủy ban Kinh tế... Tới đây, chắc chắn Quốc hội nước ta vẫn theo mô hình ít cơ quan thường trực hơn, nhưng cũng không thể quá ít, mất cân đối so với số lượng các bộ, ngành của Chính phủ dẫn đến tình trạng không thể bao quát hết công việc như hiện tại, nhất là thực hiện chức năng giám sát - công cụ của kiểm soát quyền lực. Như đã lý giải, việc tăng thêm các cơ quan của Quốc hội sẽ không làm tăng biên chế nhà nước, vì có thêm bao nhiêu cơ quan thì cũng chỉ trong số đại biểu của Quốc hội (như hiện nay là 498 đại biểu). Bởi vậy, việc tăng thêm các cơ quan trong Quốc hội có ý nghĩa tích cực là tổ chức, phân công lại lao động theo hướng chuyên sâu, san sẻ công việc để ngày càng bao quát trọn vẹn chức năng, nhiệm vụ, tiến đến làm cho hết việc; cũng đồng nghĩa với việc tận dụng khả năng, năng lực các đại biểu Quốc hội trong một nhiệm kỳ. Dự tính đến năm 2030, Quốc hội có 12 cơ quan chuyên môn, đến năm 2045 là 15 cơ quan và có thể định hình tại đây. Khi ấy, dự tính số cơ quan của Quốc hội cũng chỉ bằng khoảng 60% so với số lượng các bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ.Việc sửa đổi Luật này còn nhằm xử lý ít nhất hai việc nữa:

Một là , cân đối, phân công lại công việc theo số lượng các cơ quan thường trực khi đã tăng thêm. Đồng thời, điều chỉnh lại những bất hợp lý về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan hiện tại do các mô hình tổ chức khác nhau (hiện nay Quốc hội có 10 cơ quan nhưng theo 3 mô hình tổ chức: 8 Ủy ban tổ chức theo chuyên đề là Pháp luật; Tư pháp; Kinh tế; Tài chính-ngân sách; Xã hội; Khoa học, công nghệ và môi trường; Quốc phòng và An ninh; Đối ngoại); một cơ quan tổ chức theo mô hình chuyên đề kết hợp với đối tượng, đó là Ủy ban Văn hóa, Giáo dục (trong đó có đối tượng là thanh, thiếu niên và nhi đồng); một cơ quan tổ chức theo mô hình chuyên đề kết hợp với đối tượng, kết hợp với địa bàn, đó là Hội đồng Dân tộc). Vì thế có những việc “bị bỏ trống”, có những việc cơ quan nào làm cũng được... do vậy cần quy định, điều chỉnh cho hợp lý hơn.

Hai là, quy định lại số lần lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm trong một nhiệm kỳ và những nội dung cụ thể của việc lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm trong các nhiệm kỳ mới.

Đi đôi với việc sửa đổi Luật Tổ chức Quốc hội là sửa đổi Luật Tổ chức chính quyền địa phương để xử lý một số vấn đề về HĐND theo hướng tăng cường hiệu lực của HĐND cấp tỉnh, tổ chức tinh gọn hơn HĐND cấp huyện, cấp xã theo vùng đô thị, nông thôn và hải đảo.

2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung thì Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thông suốt, kịp thời, đúng đắn... Đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến cơ sở; xây dựng và thực hiện phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, trọng dân, gần dân, hiểu dân, vì dân, bám sát thực tiễn, cầu thị, học hỏi, nói đi đôi với làm”[3]. Đối với cơ quan dân cử, ngoài chế độ làm việc tập thể, quyết định theo đa số đã được luật định thì phong cách làm việc “khoa học, dân chủ, trọng dân, gần dân, hiểu dân, vì dân, bám sát thực tiễn, cầu thị, học hỏi, nói đi đôi với làm”, hơn đâu hết, đây là những yêu cầu hết sức thiết thực phải được thể hiện rõ ràng, cụ thể trong mỗi sản phẩm của cơ quan dân cử và phải là phong cách hoạt động của mỗi cơ quan dân cử và mỗi đại biểu dân cử. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng Cương lĩnh, bằng các nghị quyết, quyết định, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng. Bởi vậy, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nghĩa là phải đổi mới, nâng cao tính khoa học, tính dân chủ, tính thực tiễn, nâng cao chất lượng các nghị quyết, quyết định, quy định, chỉ thị, kết luận của Đảng và có cơ chế vận hành hợp lý giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo. Các quyết định, chỉ thị lãnh đạo của Đảng phải mềm dẻo, linh hoạt, thực sự dân chủ, hết sức tránh áp đặt, cứng nhắc, nhất là các quyết định về nhân sự, về bộ máy các cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan dân cử nói riêng. Đảng phải cung cấp đầy đủ các thông tin, cứ liệu cần thiết, khách quan để cơ quan dân cử quyết định một cách thực chất, hết sức tránh thông tin một chiều, không đầy đủ. Tất cả đều nhằm bảo đảm cho cơ quan dân cử hoạt động ngày càng thực chất và hiệu quả hơn. Vấn đề quan trọng này một lần nữa Đảng và các cấp ủy Đảng cùng các cơ quan hữu trách phải tiếp tục thực hiện và thực hiện tốt hơn nữa lời tâm huyết của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phát biểu tại phiên khai mạc kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VIII, ngày 17-6-1987, Tất cả những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định về mặt nhà nước phải được đưa ra Quốc hội thật sự bàn bạc dân chủ trước khi có nghị quyết chính thức . Lời phát biểu chỉ đạo này gợi ý một cơ chế làm việc giữa Đảng lãnh đạo Quốc hội và Quốc hội thực thi sự lãnh đạo của Đảng. Kết quả hoạt động của Quốc hội phải là một trong những căn cứ quan trọng nhất cho các quyết định của Đảng. Có thể lấy một ví dụ thực tế đã diễn ra: Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI, dự án kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001- 2005, khác tiền lệ là Quốc hội thảo luận (có tính chất “cày vỡ”) trước khi Bộ Chính trị cho ý kiến. Các ý kiến “cày vỡ” của Quốc hội được Bộ Chính trị nghiên cứu, phân tích rất kỹ lưỡng... Sau sự chỉ đạo của Bộ Chính trị về kế hoạch này, Quốc hội thảo luận, thông qua rất nhanh chóng, thấu đáo, chất lượng tốt và thông suốt. Liên hệ với bây giờ, chính là sự lãnh đạo, chỉ đạo “từ sớm, từ xa” đối với nhiều công việc lớn. Từ đó có thể rút ra vấn đề như là cơ chế làm việc: Những công việc đại sự quốc gia thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan dân cử thì cơ quan dân cử có trách nhiệm tham mưu, đề xuất trước với Đảng để Đảng có sự lãnh đạo, chỉ đạo phương hướng giải quyết hợp lý, thấu đáo, hiệu quả nhất. Đảng không “làm thay”, không “giải quyết hộ” công việc cho cơ quan dân cử.

- Đảng lãnh đạo cơ quan dân cử thực hiện quyền kiểm soát quyền lực đối với các cơ quan hành pháp và tư pháp thông qua hoạt động giám sát

Cương lĩnh năm 1991 của Đảng (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định, “Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Như vậy, các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam không chỉ là thống nhất, phân công, phối hợp thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình mà còn phải kiểm soát lẫn nhau trong việc thực thi quyền lực. Có thể nói, Kiểm soát quyền lực Nhà nước là toàn bộ các hoạt động xem xét, theo dõi, đánh giá để ngăn chặn, loại bỏ những nguy cơ, những hành vi, những việc làm sai trái của các chủ thể (các cơ quan nhà nước, các cán bộ, công chức, viên chức nhà nước) trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được sử dụng và thực hiện theo đúng Hiến pháp và pháp luật. Các hình thức (công cụ) kiểm soát quyền lực chính là các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm soát...

Theo Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan lập pháp, do đó được phân công và có quyền (có trách nhiệm) kiểm soát hoạt động thi hành quyền lực của các cơ quan hành pháp và tư pháp. Công cụ kiểm soát quyền lực chính là các hình thức giám sát tối cao theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, trong đó có điều tra theo hoạt động của Ủy ban lâm thời của Quốc hội.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các nhiệm kỳ gần đây Quốc hội đã thực hiện tương đối tốt việc kiểm soát quyền lực đối với nhiều hoạt động của hai nhánh hành pháp và tư pháp; đã góp phần xứng đáng vào thành tựu chung của đất nước. Tuy nhiên, nhiệm vụ này đối với Quốc hội từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 còn vô cùng nặng nề, phức tạp. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ “Việc phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí vẫn còn hạn chế... tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong một số cơ quan, đơn vị khu vực hành chính, dịch vụ công chưa được đẩy lùi. Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta... Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi”[4]. Do đó, đổi mới phương thức lãnh đạo ở đây có nghĩa là đổi mới cách thức chỉ đạo cụ thể đối với cơ quan dân cử, trước hết là Quốc hội. Quốc hội phải sử dụng mạnh mẽ các công cụ giám sát tối cao của mình để thực hiện kiểm soát quyền lực đối với các cơ quan đó, trước hết là những cơ quan, đơn vị mà Đại hội XIII của Đảng nhắm tới và kết luận (như đã dẫn ở trên):

- Một là, trong hoạt động chất vấn, sẽ phải chất vấn đột phá vào “một số cơ quan, đơn vị khu vực hành chính, dịch vụ công” đang tồn tại nhũng nhiễu, tiêu cực. Chất vấn đột phá vào những người đứng đầu một số lĩnh vực, địa bàn mà tham nhũng, lãng phí ngày càng tinh vi. Chất vấn đột phá vào “một bộ phận cán bộ có “lợi ích nhóm” tiêu cực, có bệnh lãng phí, vô cảm...”.

- Hai là, sẽ phải lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm nhiều lần có tính sàng lọc, làm cho bộ máy và nhân sự trong bộ máy thường xuyên nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao; đồng thời, thực sự giúp cho việc thường xuyên đánh giá cán bộ cấp cao được chính xác hơn để chuẩn bị nhân sự cho nhiệm kỳ sau.

- Ba là, Sử dụng “công cụ” Ủy ban lâm thời của Quốc hội để điều tra những vụ việc đang có nhiều ý kiến phức tạp thuộc các lĩnh vực tài chính, tiền tệ; nơi nắm giữ quyền phân chia dự án; quản lý đất đai, môi trường; quản lý tài sản nhà nước và một số vụ án xét xử đang có nhiều tai tiếng...

Tất cả những hoạt động kiểm soát quyền lực của cơ quan dân cử đều phải nhằm góp phần làm cho hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam ngày càng trong sạch, vững mạnh, đúng nghĩa là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân./.


[1]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, tr. 175-178.

[2]Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, tr. 89.

[3]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, tr. 198-199.

[4]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, tr. 92-95.