Tuy nhiên, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu dạy và học với mục tiêu phát triển phẩm chất, năng lực người học, nhất là năng lực chuyển đổi số trước yêu cầu đổi mới, phát triển của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Dồn lực đầu tư
Qua giám sát của HĐND tỉnh cho thấy, trong thời gian qua, toàn tỉnh đã dành nhiều nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị dạy học nhằm đảm bảo các điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Theo báo cáo của Sở Tài chính, tổng chi ngân sách địa phương cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo giai đoạn 2021 - 2025 là 59.970.467 triệu đồng, chiếm khoảng 37% trên tổng chi ngân sách địa phương, trong đó, ưu tiên nguồn lực để tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục.

Riêng nguồn vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025, kinh phí đầu tư cho giáo dục là 278.210 triệu đồng, trong đó ngân sách tỉnh: 249.767 triệu đồng và 28.443 triệu đồng từ nguồn xã hội hóa giáo dục, với 20 dự án đầu tư xây dựng, cải tạo cơ sở vật chất trường lớp.
Ngoài ra, trong thời gian qua, toàn tỉnh đã thực hiện tốt công tác xã hội hoá, huy động sự đóng góp của phụ huynh học sinh, nguồn tài trợ của các tổ chức cá nhân đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị; phân bổ kịp thời nguồn vốn Tiểu Dự án 1 thuộc Dự án 5 Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi với 266.871 triệu đồng để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú, trường có học sinh bán trú.
Nhờ đó, hàng năm hầu hết các cơ sở giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh đều bổ sung, cải tạo, xây mới các công trình, mua sắm các trang thiết bị phục vụ dạy và học từ nguồn xã hội hóa và nguồn cấp từ ngân sách nhà nước. Theo báo cáo của UBND tỉnh từ năm 2020 đến năm 2025 toàn tỉnh đã đầu tư xây dựng mới 1.254 phòng học, 1.843 phòng chức năng, bổ sung 214 phòng hỗ trợ giáo dục khuyết tật ở cấp tiểu học; xây dựng 366 phòng học, 1.615 phòng học bộ môn, 541 phòng chuẩn bị thí nghiệm thực hành, 83 phòng thư viện ở cấp THCS; xây dựng 141 phòng học, 1.515 phòng học bộ môn và phòng chuẩn bị thí nghiệm, 10 phòng thư viện; 1.528 phòng học cho các lớp tăng thêm do tăng học sinh các cấp; mua sắm trang thiết bị dạy học các cấp học với tổng kinh phí cả giai đoạn là 8.552 tỷ đồng.

Nhiều địa phương đã quan tâm dành nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất trường lớp, trang thiết bị dạy học đáp ứng nhu cầu dạy và học, như: Huyện Quỳnh Lưu từ năm 2021 đến nay tổng nguồn lực huy động đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học (từ ngân sách nhà nước, huy động xã hội hóa và nguồn hợp pháp khác) ước đạt 897,6 tỷ đồng; trong đó: đầu tư xây dựng mới phòng học, phòng bộ môn: 807,4 tỷ đồng với 611 phòng, nâng cấp sửa chữa các công trình: 24,5 tỷ đồng, mua sắm trang thiết bị: 65,7 tỷ đồng.
Còn huyện Thanh Chương, nguồn ngân sách và huy động các nguồn lực xã hội đóng góp đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị từ nguồn ngân sách huyện và xã được bố trí 366,685 tỷ đồng; kinh phí xã hội hóa giáo dục, vận động tài trợ từ các doanh nghiệp, nhà hảo tâm, các thế hệ học sinh, nguồn tài trợ của Nhân dân, phụ huynh là 120,006 tỷ đồng. Từ đó đã sửa chữa và xây dựng mới 524 phòng học, phòng chăm sóc giáo dục; 99 phòng chức năng và nhiều công trình phụ trợ khác.
Nhờ nỗ lực đầu tư, hiện nay, cơ sở vật chất, trang thiết bị được từng bước tăng cường theo hướng kiên cố hoá, hiện đại hoá, chuẩn hoá, giảm phòng học xuống cấp, phòng học tạm, mượn tại nhiều địa phương. Hiện số lượng phòng học kiên cố đạt 87,7%, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu khoảng 85,5%. Có thể thấy việc đầu tư cơ sở vật chất trường lớp đã góp phần tăng tỷ lệ trường chuẩn quốc gia của bậc học mầm non và phổ thông, dự kiến tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia đến 2025 là trên 80% (vượt chỉ tiêu của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX là 78%), cơ bản đáp ứng nhu cầu dạy và học, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trên địa bàn.
Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học nhiều nơi chưa đáp ứng được yêu cầu
Tuy nhiên, cơ sở vật chất trường lớp, trang thiết bị dạy học dù được tăng cường đầu tư nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu phát triển quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu dạy và học theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Một số địa phương cũng do số lượng phòng học không đủ nên đã gây áp lực lớn đến công tác tuyển sinh đầu cấp THPT, gây quá tải sĩ số học sinh/lớp như một số trường tại thành phố Vinh.

Báo cáo của UBND tỉnh về kết quả thực hiện đổi mới Chương trình, sách giáo khoa cũng đã chỉ ra: Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu, đa số các trường thiếu phòng học bộ môn nhất là phòng học ngoại ngữ, tin học, khoa học công nghệ; hầu hết các phòng đã xây dựng từ lâu nên diện tích nhỏ, chưa đảm bảo quy định, khu vệ sinh, sân chơi, các công trình phụ trợ chưa đáp ứng yêu cầu. Thiết bị dạy học tối thiểu chưa đủ, kinh phí dành cho mua sắm cơ sở vật chất, thiết bị dạy học còn hạn hẹp, việc trang bị các thiết bị dạy học theo quy định tại một số đơn vị chưa kịp thời.
Theo thống kê của Sở Giáo dục và Đào tạo, toàn tỉnh hiện có 1.507 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập với 24.875 phòng học. Tuy nhiên, số lượng phòng học đạt kiên cố chỉ đạt 87,7%, cấp học mầm non có tỷ lệ phòng học kiên cố thấp nhất chỉ đạt 80,1%, số lượng phòng học bộ môn đáp ứng quy định đạt tỷ lệ 72,7%. Một số cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh còn thiếu phòng học, một số phòng học đã xuống cấp và quá tải phải học nhờ, học tạm. Hiện nay, toàn tỉnh còn 189 phòng học tạm mượn (trong đó mầm non: 39 phòng; Tiểu học: 85 phòng: THCS: 23 phòng, THPT: 42 phòng). Một số địa phương miền núi có số lượng phòng học tạm, mượn nhiều như: Huyện Con Cuông hiện còn 24 phòng học tạm mượn, 110 phòng học xuống cấp. Huyện Quế Phong hiện còn 33 phòng học tạm mượn,....

Trang thiết bị dạy học còn thiếu, một số thiết bị cũ, bị hỏng, xuống cấp không đáp ứng yêu cầu dạy và học theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018 nhất là các trường ở vùng miền núi. Theo thống kê bậc học mầm non và phổ thông trang thiết bị đáp ứng khoảng 85,5%, cấp học Tiểu học có tỷ lệ trang thiết bị dạy học đáp ứng tối thiểu thấp nhất 82%.
Tiếp tục đảm bảo điều kiện dạy và học
Để đảm bảo cơ sở vật chất trường lớp, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu đổi mới, yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông 2018, nâng cao chất lượng dạy và học, tiến tới thực hiện dạy học 2 buổi/ngày ở bậc tiểu học, THCS từ năm học 2025 - 2026, trong thời gian tới cần kịp thời rà soát hiện trạng cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện có để có kế hoạch đầu tư xây dựng, tu sửa cơ sở vật chất, mua sắm đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị theo hướng đồng bộ, phù hợp nhu cầu thực tiễn và đáp ứng yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia nói riêng. Dành ngân sách thỏa đáng từ nguồn vốn ngân sách địa phương để đầu tư cơ sở vật chất cho giáo dục; thực hiện lồng ghép có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình mục tiêu của ngành giáo dục; đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục, huy động sự đóng góp, tài trợ của các tổ chức cá nhân cho giáo dục.
Hoàn thiện quy hoạch mạng lưới trường, lớp học phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, quy mô phát triển giáo dục của địa phương, phù hợp với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp để làm cơ sở cho việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học; ưu tiên bố trí quỹ đất, trụ sở dôi dư sau sắp xếp tổ chức bộ máy để xây dựng trường học, nhà công vụ cho giáo viên, nhất là ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Song song với đó, các cơ sở giáo dục cần kiểm tra và giám sát việc lập kế hoạch, tổ chức quản lý sử dụng, sửa chữa và bảo quản cơ sở vật chất ở các cơ sở giáo dục để đảm bảo khai thác và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
Đẩy mạnh phong trào tự làm thiết bị dạy học, xây dựng kho học liệu số dùng trong trường, trong tỉnh để bổ sung tư liệu dạy học, thiết bị dạy học có chất lượng sử dụng trong công tác dạy và học tại các cơ sở giáo dục, đặc biệt là những nơi chưa có điều kiện mua sắm đầy đủ trang thiết bị dạy học.
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo Chương trình GDPT 2018, tỉnh cần tiếp tục rà soát kỹ thực trạng cơ sở vật chất, từ đó có kế hoạch đầu tư bài bản, dài hạn. Đồng thời, cần huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội hóa, phát huy nội lực cộng đồng để đảm bảo mọi học sinh đều được học tập trong môi trường giáo dục an toàn, hiện đại, chất lượng.