Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật HN&GĐ năm 2000 trình kỳ họp thứ 6 - Quốc Hội khoá XII đề cập đến một số vấn đề xã hội cần được điều chỉnh. Sau đây là một số ý kiến bàn về nội dung sửa đổi, bổ sung của dự án luật:

- Về áp dụng tập quán trong hôn nhân và gia đình: Việc dự thảo Luật bổ sung quy định theo hướng cho phép các bên được thỏa thuận áp dụng tập quán trong trường hợp về một vấn đề nhưng vừa có pháp luật quy định lại vừa có tập quán điều chỉnh (nếu tập quán đó được pháp luật công nhận) là cần thiết, phù hợp với lý luận và thực tiễn. Bởi vì: Việt Nam có tới 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc lại có tập quán riêng của mình, phong tục tập quán rất phong phú, đa dạng và giữ vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến HN&GĐ trong thực tiễn, đặc biệt ở các địa phương có đồng bào dân tộc ít người sinh sống. Tuy nhiên việc áp dụng tập quán để điều chỉnh quan hệ HN&GĐ phải được pháp luật quy định hết sức chặt chẽ để tránh làm suy yếu vai trò của pháp luật.

- Về độ tuổi kết hôn: Nên quy định "nam, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên" đều có quyền kết hôn, bởi vì pháp luật dân sự hiện hành quy định người từ đủ 18 tuổi trở lên là người đã thành niên, nếu không ở tình trạng mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì được quyền tham gia tất cả các quan hệ dân sự và tố tụng dân sự. Trong các quan hệ xã hội khác được pháp luật điều chỉnh cũng quy định nam giới từ đủ 18 tuổi là đã có đầy đủ năng lực pháp lý để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trước Nhà nước và xã hội. Mặt khác, việc quy định thống nhất nam nữ cùng độ tuổi kết hôn là việc thực hiện trên nguyên tắc bình đẳng giới. Đồng thời, trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, nước ta đã có những bước cải thiện đáng kể về chất lượng cuộc sống, góp phần nâng cao thể chất và trí tuệ của người Việt Nam, vì vậy, việc quy định tuổi kết hôn đối với nam là từ đủ 18 thay vì 20 tuổi như hiện nay là phù hợp.

- Về các quy định về mang thai hộ: Trong xã hội hiện nay, tình trạng nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn xảy ra khá nhiều, từ đó làm phát sinh việc mang thai hộ. Đây là một giao dịch dân sự chưa được Nhà nước thừa nhận nên nghiễm nhiên là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên nó vẫn xảy ra mà chúng ta không thể quản lý được. Do đó việc dự thảo lần này đưa các chế định về mang thai hộ là hết sức cần thiết. Nhà nước cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại nhưng nên cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo để tạo điều kiện cho những cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được quyền làm cha, mẹ theo nguyện vọng.

Điều kiện về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, người được nhờ mang thai hộ nên quy định theo phương án mở, không nên quy định bó hẹp chỉ “là người có quan hệ thân thích” vì có thể xảy ra trường hợp người có quan hệ thân thích không đồng ý giúp đỡ hoặc vì những lý do khác.

- Về cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc thuận tình ly hôn: Vấn đề này, nên quy định chỉ có cơ quan Toà án mới có thẩm quyền quyết định không nên quy định "cơ quan đăng ký hộ tịch xác nhận hoặc Toà án công nhận thuận tình ly hôn" như phương án 1 của dự thảo đưa ra. Việc quy định chỉ Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền giải quyết việc ly hôn của vợ chồng sẽ làm giảm bớt được các tranh chấp khác sau ly hôn. Bởi vì, thực tiễn mặt bằng trình độ cán bộ làm công tác đăng ký hộ tịch hiện nay còn nhiều hạn chế, nhất là ở các địa phương vùng sâu vùng xa, nếu giao quyền xác nhận công nhận thuận tình ly hôn sẽ làm phát sinh nhiều tranh chấp.

- Về chế định ly thân: Theo quy định của dự thảo về hiệu lực của ly thân “Ly thân không làm chấm dứt quan hệ vợ chồng, nhưng vợ chồng chấm dứt nghĩa vụ sống chung”. Như vây, xét về mặt thực tế “ly thân” và “hôn nhân tồn tại” chỉ khác nhau ở điểm là “chấm dứt nghĩa vụ sống chung”. Khái niệm sống chung trong thực tế hiện nay được hiểu theo nhiều nghĩa, có thể hiểu theo nghĩa bóng là không ở chung một nhà, nhưng có thể hiểu theo nghĩa đen là ở chung nhưng không quan hệ vợ chồng…Đồng thời, hiểu theo quy định trên đây thì ly thân đơn thuần chỉ là chấm dứt nghĩa vụ sống chung, còn mọi quan hệ khác của vợ chồng vẫn tồn tại. Điều này sẽ làm phát sinh nhiều tranh chấp phức tạp khi hai bên có yêu cầu ly hôn, như xã định tài sản chung, tài sản riêng, con cái sinh sau thời điểm ly thân, quan hệ với người thứ ba sau khi ly thân (ví dụ như xác định tội danh “vi phạm chế độ một vợ, một chồng” khi một trong hai bên vi phạm)… Hơn nữa, theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 thì vợ, chồng có quyền lựa chọn nơi cư trú và không có quy định nào buộc vợ chồng nhất thiết phải sống chung. Do đó không nên bổ sung chế định ly thân vào Luật./.

Trần Minh