1. Cử tri huyện Tương Dương, Quỳ Châu, Kỳ Sơn kiến nghị cần quan tâm, tạo điều kiện hỗ trợ cơ sởvật chất cho các trường bán trú ởcác vùng sâu, vùng xa đảm bảo việc dạy và học cho giáo viên và học sinh.
Ngày 02/8/2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư số 24/2010/TT- BGDĐT về Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc bán trú; ngày 21/12/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 85/2010/QĐ-TTg về việc thực hiện chế độ hỗ trợ học sinh và trường phổ thông dân tộc bán trú.
Hỗ trợ cơ sở vật chất trường phổ thông dân tộc bán trú gồm các nội dung: Nhà ở, giườngnằm, nhà bếp, phòng ăn,nhà tắm, công trình vệ sinh, công trình nước sạch và các thiết bị kèm theo cho học sinh bán trú được xây dựng theo tiêu chuẩn thiết kế trường học hiện hành.
Sở GD&ĐT đã tham mưu, quy hoạch 42 trường phổ thông dân tộc bán trú trong Quy hoạch phát triển giáo dục và đào tạo tỉnh Nghệ An giai đoạn 2012-2020, được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 06/2013/QĐ-UBND ngày 16/01/2013.
Việc xây dựng cơ sở vật chất các trường bán trú ởcác huyện miền núi đã được UBND tỉnh phê duyệt bằng các nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia hàng năm,chương trình kiên cố hoá trường lớp học, nông thôn mới, nguồn vượt thu hàng nămcủa tỉnh và sự giúp đỡ, hỗ trợ của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, vv.
Do địa bàn miền núi Nghệ An quá rộng, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP về cắt giảm đầu tư công nên kinh phí đầu tư cơ sở vật chất cho các trường dân tộc bán trú chưa được đáp ứng và có chững lại.
Trong thời gian tới, ngành GD&ĐT tích cực phối hợp với các ngành hữu quan tiếp tục xác định, tham mưu lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn đểđầu tư cơ sở vật chất cho các trường bán trú, đặc biệt là các trường bán trú vùng sâu, vùng xa, nhằm đảm bảo điều kiện dạy học cho thầy và trò các trường dân tộc bán trú.
2. Cử tri đề nghị sớm có văn bản hưởng dẫn việc thực hiện Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT quy định về dạy thêm, học thêm tạo thuận lợi cho các địa phương và trường học trên địa bàn tỉnh trong việc triển khai thực hiện
Trên cơ sở Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Quyết định số 01/2013/QĐ-UBND ngày 11/01/2013 về việc ban hành Quy định về dạy thêm, học thêm trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Trên cơ sở Quyết định số 01/2013/QĐ-UBND của UBND tỉnh, Sở Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Công văn số 260/SGD&ĐT-GDTH ngày 25/02/2013 về việc hướng dẫn thực hiện Thông tư số 17 và Quyết định số 01 về dạy thêm, học thêm (đối với cấp tiểu học), Công văn số 312/SGD&ĐT-GDTrH ngày 05/3/2013 về việc hướng dân thực hiện quy định về dạy thêm, học thêm (đối với cấp THCS và THPT).
Các văn bản nói trên đã tạo thuận lợi cho các địa phương và nhà trường trên địa bàn tỉnh khai việc dạy thêm, học thêm đúng quy định.
3. Thời gian qua chất lượng đào tạo ở bậc học mầm non trên địa bàn tỉnh chưa được quan tâm đúng mức, việc đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ giáo viên còn nhiều hạn chế. Cử tri đề nghị tỉnh quan tâm đầu tư nâng cao chất lượng bậc học này, có cơchế khuyến khích các nhà đầu tư nhằm đa dạng hóa các loại hình đào tạo đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của phụ huynh học sinh.
Trong 5 năm qua, thực hiện chủ trương, chính sách của Chính phủ, của Bộ GDĐT, của UBND tỉnh, giáo dục mầm non Nghệ An từng bước được củng cố và phát triển, góp phần thay đổi diện mạo bậc học. Đến nay hệ thống trường mầm non được phát triển ở khắp các vùng miền và ngày càng thu hút trẻ đến trường, đáp ứng phần lớn nhu cầu về chăm sóc giáo dục trẻ trong độ tuổi mầm non. Tuy vậy, so với mục tiêu, nhiệm vụ và yêu cầu đặt ra, vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế, bất cập. Trong bối cảnh đó, Sở GD&ĐT Nghệ An đã có nhiều biện pháp tích cực chỉ đạo nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
a). Công tác tham mưu các chính sách phát triển GDMN
Sở tham mưu HĐND thông qua Quy hoạch mạng lưới trường mầm non đến năm 2020; thực hiện chuyển đổi 353 trường mầm non bán công sang công lập; tuyển dụng 5.646 giáo viên mầm non vào biên chế; thực hiện Đềán phổcập giáo dục mầm non trẻ mẫu giáo 5 tuổi; chính sách hỗ trợ tiền lương cho giáo viên, nhân viên hợp đồng trong trường mầm non bán công; vv. Những chính sách trên đã phát huy hiệu quả, tạo đà thúc đẩy giáo dục mầm non phát triển những năm tiếp theo.
b). Phát triển hợp lý quy mô giáo dục mầm non
Tại thời điểm tháng 3/2013, toàn tỉnh có 515 trường mầm non, trong đó 499 trường công lập, 5 trường dân lập và 11 trường tư thục. Huy động 22.339 trẻ dưới 3 tuổi đến trường mầm non đạt tỷ lệ 18,8%; huy động 132.130 trẻ từ 3 đến 5 tuổi ra lớp đạt tỷ lệ 87,8%, trong đó huy động 49.298 trẻ 5 tuổi ra lớp đạt tỷ lệ 99,3%. Quy mô phát triển giáo dục mầm non nhìn chung phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của từng địa phương. Tuy vậy, ở khu vực đô thị do tăng dân số cơ học nhanh và ở một số đơn vị hành chính cấp xã mới chia tách, thành lập, việc thành lập trường mầm non còn chậm trễ, gây sức ép lớn về việc ra lớp của trẻ mầm non.
c). Chăm lo xây dựng đội ngũgiáo viên và CBQL giáo dục mầm non
Việc xây dựng đội ngũ giáo viên và CBQL ngành học mầm non được quan tâm chăm lo. Đến nay, 100% giáo viên đứng lớp đạt chuẩn đào tạo, tỷ lệ trên chuẩn đào tạo chiếm 62,2%. Việc UBND tỉnh tuyển dụng 5.646 cán bộ, giáo viên, nhân viên mầm non bán công vào biên chế, được hưởng lương theo ngạch bậc từ ngân sách ngân sách Nhà nước từ tháng 9 năm 2011 đã tạo phấn khởi, quyết tâm trong đội ngũ giáo viên mầm non vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.
Ngoài các cuộc tập huấn, chuyên đề, hội thi, Sở và các phòng GD&ĐT đã tổchức nhiều cuộc hội thảo nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ trong trường mầm non; đẩy mạnh công tác thăm lớp dự giờ, rút kinh nghiệm, tạo điều kiện cho CBGV tham gia các lớp bồi dưỡng, tham quan học tập...để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Tuy vậy, theo Thông tư liên bộ số 71/TTLB-BGDĐT-BNV, không có định mức biên chế người nấu ăn mà phải thuê khoán, khó khăn đặt ra là kinh phí thuê khoán và việc kiểm tra trình độ người nấu ăn trong các trường mầm non.
d). Quan tâm đầu tư xây dựng csvc trường lớp mầm non
Các địa phương quan tâm việc xây dựng csvc trường lớp mầm non: ưu tiên trường mầm non trong việc thực hiện chương trình kiên cố hóa trường lớp học, nhà công vụ giáo viên, lồng ghép các chương trình, dự án để tăng cường csvc, trang thiết bị GDMN. Trong năm học 2011-2012 đã xây mới 447 phòng học, 152 công trình nước sạch; bố trí kinh phí 22,6 tỷ đồng để mua thiết bị giáo dục mầm non. Đến nay, số trường mầm non có công trình nước sạch: 494 trường (tỷ lệ 97,2%), 486 trường có nhà bếp (tỷ lệ 95,6%), trong đó bếp đạt yêu cầu là 332 (tỷ lệ 68,3%); số trường có công trình vệ sinh đạt yêu cầu chiếm tỷ lệ 85%, số trường có sân chơi cho trẻ có thiết bị đồ chơi đạt tỷ lệ 85,6%. Tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 54,5%. Bước vào năm học 2012-2013, có thêm 186 phòng học mới của mầm non được đưa vào sử dụng, bố trí 68 tỷ đồng mua thiết bị giáo dục mầm non; đang triển khai xây mới 6 trường mầm non với tổng số 52 phòng học, xây mới 110 phòng học với tổng kinh phí 110 tỷ đồng
Tuy vậy, ở khu vực nông thôn, miền núi, cơ sở vật chất nhiều trường mầm non còn nghèo nàn, lạc hậu, phòng học tạm, phòng học mượn còn nhiều; một số trường ở khu vực đô thị có khuôn viên quá chật hẹp, không đủ phòng học để tiếp nhận trẻ.
e).Tích cực xây dựng trường mầm non đạt chuẩn quốc gia
Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia được cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm, chăm lo, góp phần nâng sốlượng và tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia ở mầm non 222 trường, đạt tỷ lệ 43,7% (cả nước: 2.828 trường, tỷ lệ 21,03%). Riêng trong năm học 2011-2012, UBND tỉnh đã công nhận thêm 28 trường mầm non đạt chuẩn quốc gia. Hệ thống trường mầm non đạt chuẩn quốc gia đã phát huy hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ.
g) Triển khai các biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ
- Chỉ đạo các trường MN thực hiện tốt các nội dung hoạt động chăm sóc sức khỏe, nuôi dưỡng, vệ sinh phòng dịch bệnh, phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ, bảo đảm tuyệt đối an toàn cho trẻ mầm non;
- Tăng cường công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng chất lượng dinh dưỡng bữa ăn cho trẻ; tích cực phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ cả thểthấp còi và thểthừa cân.
- Triển khai chương trình GDMN mới trên phạm vi toàn tỉnh;
- Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo người dân tộc đểcác cháu vào lớp 1;
- Lồng ghép các chủ đề “Giáo dục lễ giáo”, “Bé làm quen với văn học”, giáo dục an toàn giao thông, cho trẻ tiếp cận với máy vi tính qua chương trình Kismar,..vv.
Những năm gần đây, do được chăm sóc với điều kiện ngày càng tốt hơn lảm cho tỷ lệ trẻ mầm non trong độ tuổi ra lớp tăng nhanh, nhất là khu vực đô thị (cụ thểlà thành phố Vinh), do đó có một số trường mầm non khuôn viên quá chật hẹp, không đủ phòng học để tiếp nhận trẻ, phải mượn cả nhà văn hóa khối, xóm cho các cháu học. Điều này đã làm hạn chế chất lượng chăm sóc nuôi dạy trẻ.
Thực hiện Đềán phổ cập giáo dục mầm non trẻ mẫu giáo 5 tuổi theo Quyết định số 239/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh chỉ đạo ngành GD&ĐT, UBND các huyện, thành, thị tập trung nguồn lực để trong năm 2012, 2013 xây đủ phòng học cho các trường mầm non, thanh toán số phòng học tạm, phòng học mượn nói trên, đáp ứng yêu cầu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi trước tháng 12 năm 2015.
Trong điều kiện ngân sách nhà nước có hạn, các địa phương cần làm tốt việc xã hội hóa giáo dục, vận động nhân dân, phụ huynh ủng hộ xây dựng cơ sở vật chất trường lớp để con em có đủ chỗ học đàng hoàng hơn, khang trang hơn trên tất cả vùng miền của tỉnh.
Thực hiện Nghị quyết số 90/NQ-CP ngày 21 tháng 8 năm 1997 của Chính phủ về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa; Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao; Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách khuỵến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, thế thao, môi trường, Nghệ An luôn khuyến khích các nhả tập thể, cá nhân đầu tư vào giáo dục mầm non nhằm đa dạng hoá các loại hình đào tạo đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của phụ huynh học sinh. Đến thời điểm này, trên địa bàn thành phố Vinh có 16 trường mầm non ngoài công lập.
4. Cử tri phản ánh thủ tục miễn, giảm học phí, hỗ trợ kinh phí học tập theo Nghị định 49/2010/NĐ-CP đang còn rườm rà, gây khó khăn cho người dân, cử tri đề nghị tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng cảitiến thủ tục xác nhận hồ sơ đối với học sinh thuộc diện hưởng chính sách
Thủ tục miễn, giảm học phí thực hiện đúng quy định theo Điều 3 của Thông tư liên bộ số 29/2010/TTLT-BGD&ĐT-BTC-BLĐTBXH ngày 15/11/2010, hướng dẫn Khoản 2, 3 Điều 7 Nghị định số 49/2010/NĐ-CP của Chính phủ.
Hiện nay Liên Bộ đã tổ chức góp ý để điều chỉnh một số nội dung chưa phù hợp của Nghị định số 49/2010/NĐ-CP, trong đó các tỉnh, ban ngành liên quan đã đềcầp đến vấn đề cử tri nêu, tuy nhiên muốn UBND tỉnh cải tiến thủ tục xác nhận hồ sơ như ý kiến của cử tri đã nêu thì phải chờ văn bản khác của Liên bộ thay thê hoặc bổsung nội dung của Thông tư số 29/2010/TTLT-BGD&ĐT-BTC-BLĐTBXH.
5. Hiện nay tình trạng giáo viên dôi dư nhiều nhưng giáo viên mầm non, giáo viên âm nhạc, mỹ thuật lại thiếu. Cử tri đề nghị tỉnh quy hoạch vê đào tạo giáo viên trên phạm vi toàn tỉnh và có các biện pháp khăc phục tình trạng trên
a) Sở GD-ĐT đã có các giải trình về tình trạng giáo viên dôi dư: Thực tế theo nhu cầu thực hiện nhiệm vụ thì chỉ có GV bậc THCS dôi dư.
b) Thực hiện kế hoạch dạy học của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng dạy học, hạn chế dạy thêm học thêm, hiện nay bậc tiểu học đã thực hiện các lớp bán trú và dạy học 2 buổi/ngày, bước đầu có hiệu quả. Theo quy định thì định mức 1,5 giáo viên/lớp dạy 2 buổi/ngày nhưng do khả năng ngân sách nên tỉnh chỉ giao định mức 1,2 GV/lớp đối với vùng thuận lợi; 1,4 GV/lớp đối với vùng KT-XH đặc biệt khó khăn. Phần định mức giáo viên còn thiếu, các huyện đâ tiếp nhận hợp đồng, thực hiện xã hội hóa giáo dục bằng việc thu tiền dạy tăng buổi để chi trả lương GV hợp đồng nên hiện nay số GV tiểu học hợp đồng ở các huyện rất lớn.
Toàn tỉnh có 17.177 cán bộ, giáo viên, nhân viên tiểu học, trong đó có 15.419 công chức, viên chức, 1.758 giáo viên, nhân viên do UBND huyện, thành phố, thị xã và hiệu trưởng các trường hợp đồng. Theo số biên chế được giao năm học 2012-2013, nêu tính cả số do UBND các huyện, thành phố, thị xã và các trường hợp đồng, có 1.483 người dôi dư. Tuy vậy nếu giao đủ biên chế GV dạy 2 buổi/trên ngày và nhân viên theo Thông tư liên tịchsố 35/TTLB-BGDĐT-BNV thì sẽ có thêm 1.353 biên chế, khi đó bậc học tiểu học chỉ dôi dư 130 người.
Như vậy, nếu bậc tiểu học thực hiện đại trà việc dạy học 2 buổi/ngày thì không dôi dư giáo viên.
c) Thông tư số 71/2007/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 28/11/2007 của Liên Bộ Giáo dục và Đào tạo-BộNội vụ về việc Hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập, biên chế giáo viên qui định:
- Đối với nhóm trẻ: Bình quân mỗi giáo viên nuôi dạy 8 trẻ, nếu nhiều hơn 5 trẻ thì được bốtrí thêm một giáo viên;
- Đối với lớp mẫu giáo:
+ Lớp không có trẻ bán trú: 1 giáo viên phụ trách một lớp;
+ Lớp có trẻ bán trú: 2 giáo viên phụ trách một lớp;
+ Lớp mẫu giáo nếu nhiều hơn 10 trẻ thì được bố trí thêm một giáo viên.
Thực hiện Quyết định số 64/QĐ.UBND.VX ngày 07/01/2011 của UBND tỉnh Nghệ An vềviệc chuyển đổi loại hình trường mầm non bán công, có 5.864 CBQL, GV, NV được tuyển dụng vào biên chế. Do kế hoạch phát triển của bậc học mầm non hàng năm đều tăng nên biên chế của bậc học tăng, theo khả năng ngân sách, hiện tại định mức biên chế chỉ được giao:
- Đối với nhóm trẻ: bình quân mỗi giáo viên nuôi dạy 10 trẻ.
- Đối với lớp mẫu giáo:
+ Lớp không có trẻ bán trú: 1 giáo viên phụ trách một lớp;
+ Lớp có trẻ bán trú: 1,5 giáo viên phụ trách một lớp.
Bên cạnh đó, một số huyện có biên chế giáo viên TH, THCS nhiều hơn biên chế được giao nên ảnh hưởng đến biên chế của bậc học mầm non (vì cùng giao trong tổng chung).
Vì vậy việc thiếu GV mầm non là do chưa có định biên đểtuyển dụng chứ không phải thiếu nguồn tuyển dụng.
d) Giáo viên Mỹ thuật, Âm nhạc ở một số huyện còn thiếu:
- Cấp tiểu học: GV tiểu học được đào tạo dạy tất cả các môn của tiểu học nên các đơn vị đã bố trí các giáo viên này phụ trách.
- Cấp THCS: Các đơn vị đã tiến hành tuyển dụng giáo viên;do môn Mỹthuật, Âm nhạc có số tiết ít nên các huyện đã bố trí GV dạy liên trường.
Hiện nay Sở GD-ĐT đã hướng dẫn các đơn vị xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ giáo viên trên địa bàn các huyện để bảo đảm cân đối đội ngũ các bậc học, bộ môn.
Đoàn ĐBQH tỉnh Nghệ An trân trọng chuyển ý kiến trả lời của Sở Giáo dục và Đào tạo để cử tri và các tổ chức, cơ quan được biết./.
Đoàn ĐBQH tỉnh Nghệ An



