Dự thảo Luật đấu thầu (sửa đổi) lần này đã được Ban soạn thảo kết cấu lại các chương, mục, điều khoản hợp lý và chặt chẽ. Nội dung dự thảo đã tạo ra được các rào cản cần thiết để hạn chế những tiêu cực trong thực tế đấu thầu. Dự thảo cũng khẳng định được chủ trương, phân cấp cho chủ đầu tư, đơn giản hóa thủ tục hành chính và quy định rõ quyền của chủ đầu tư gắn với trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu. Tuy vậy để nhiều doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tham gia dự thầu và có cơ hội thắng thầu nhiều hơn trên sân nhà, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo việc làm cho lao động trong nước nhưng cũng phải phù hợp với thông lệ quốc tế. Vì vậy, cần phải chỉnh sửa một số khoản mục tại Điều 14 của dự thảo luật quy định về ưu đãi trong lựa chọn nhà thầu cụ thể:

Đại biểu Phan Văn Quý phát biểu góp ý vào Dự thảo Luật đấu thầu (sửa đổi)
Tại mục b, khoản 2, Điều 14 của dự thảo, quy định ưu đãi của nhà thầu liên doanh trong đó các thành viên là nhà thầu trong nước đã nhận từ 30% trở lên giá trị công việc của gói thầu, đề nghị điều chỉnh tỷ lệ 30% thành 25% và sửa mục này theo hướng ưu đãi cho nhà thầu liên doanh trong đó các thành viên là nhà thầu trong nước đảm nhận từ 25% trở lên giá trị công việc của gói thầu. Bởi vì trong thực tế để triển khai các dự án đa số các chủ đầu tư đều đối ứng vốn khoảng 15% còn lại khoảng 85% là vay vốn thương mại của các tổ chức tín dụng nước ngoài. Trong khi đó theo Điều 10 quy định của tổ chức OECD để vay tối đa 85% vốn thì tỷ lệ nội địa hóa của gói thầu khoảng 26%. Do vậy, việc điều chỉnh tỷ lệ nói trên là phù hợp với với thực tế và thông lệ quốc tế. Trước đó đã có một đại biểu là đề nghị điều chỉnh từ 30% xuống 15%. Nếu điều chỉnh xuống thấp quá thì tỷ lệ nội địa hóa của Việt Nam chúng ta sẽ thấp, sẽ thiệt hại cho công ăn việc làm các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, tỷ lệ 25% là phù hợp.
Trong thực tế, khi thực hiện luật chỉ vì một chữ không rõ nghĩa hoặc cách đánh dấu không đúng chỗ, làm cho mỗi người hiểu về nội dung điều luật theo các cách khác nhau, dẫn đến việc triển khai kéo dài, như chúng tôi đã từng gặp tại điểm a, khoản 1, Điều 60 của Luật đất đai năm 2003. Để khắc phục điểm yếu này đề nghị bổ sung từ "hỗn hợp" vào sau từ "xây lắp" của khoản 2, Điều 14 như dự thảo luật ngày 16/9/2013 và sửa lại khoản này theo hướng "áp dụng đối tượng được hưởng ưu đãi khi tham gia đấu thầu quốc tế để cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, xây lắp hỗn hợp". Bổ sung cụm từ "cung cấp hàng hóa" vào khoản 3, Điều 14 dự thảo luật và sửa khoản này theo hướng "áp dụng cho đối tượng được hưởng ưu đãi khi tham gia đấu thầu trong nước để cung cấp hàng hóa, cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn và xây lắp". Bổ sung từ "của gói thầu" vào khoản 1, Điều 14 và sửa lại khoản này như sau "nhà thầu được hưởng ưu đãi khi tham gia đấu thầu trong nước, quốc tế để cung cấp hàng hóa và hàng hóa đó có chi phí sản xuất trong nước chiếm tỷ lệ 25% trở lên của gói thầu". Đối với quy định ký kết hợp đồng với nhà thầu được lựa chọn, đề nghị đưa nội dung quy định "Chính phủ quy định chi tiết về hợp đồng với nhà thầu" vào Điều 63 của dự thảo luật này.
Trong nhiều năm qua, các ngành đều có xây dựng tổng sơ đồ phát triển của ngành mình, qua từng thời kỳ đều có điều chỉnh cho phù hợp, nhưng cũng có trường hợp không thể lường trước do sự biến động của thị trường. Mặt khác, việc thu xếp nguồn vốn lớn cho những gói thầu lớn cũng gặp rất nhiều khó khăn. Để xử lý tình huống này, tôi đề nghị giữ cơ bản nội dung Điều 24 của Luật đấu thầu 2005 về lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt, cụ thể trường hợp gói thầu có đặc thù riêng biệt không thể áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu theo quy định của luật này chủ đầu tư phải lập phương án lựa chọn nhà thầu, bảo đảm mục tiêu cạnh tranh và hiệu quả kinh tế trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.
Thanh Vân



