Về Điều 7 của dự thảo Luật Đất đai sửa đổi quy định về người chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với đất được giao để quản lý. Theo Điều này, phải có 4 người phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với đất được giao để quản lý : Người đứng đầu của tổ chức; Chủ tịch UBND cấp xã chịu trách nhiệm đối với việc quản lý đất sử dụng vào mục đích công cộng được giao để quản lý, đất chưa giao, đất chưa cho thuê; Chủ tịch UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm đối với việc quản lý đất chưa sử dụng tại các đảo chưa có người ở thuộc địa phương; Người đại diện của cộng đồng dân cư chịu trách nhiệm đối với đất giao cho cộng đồng dân cư để bảo vệ và phát triển rừng. Quy định như nêu trên thì người chịu trách nhiệm nhiều nhất là Chủ tịch UBND cấp xã. Vì phải chịu trách nhiệm đối với 4 loại đất được giao là: đất sử dụng vào mục đích công cộng, đất được giao để quản lý, đất chưa giao, đất chưa cho thuê. Trong khi đó thì trình độ quản lý thì hạn chế, bộ máy giúp việc quá ít. Người chịu trách nhiệm nhẹ hơn là người đứng đầu của tổ chức được giao quản lý một số đất trong phạm vi hẹp và Chủ tịch UBND cấp tỉnh có đảo mà đảo đó chưa có người ở, còn đảo có người ở thuộc địa phương mà xảy ra việc gì đối với đất trên đảo thì Chủ tịch UBND cấp tỉnh không phải chịu trách nhiệm.

Người không phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với đất được giao để quản lý là Chủ tịch UBND cấp huyện và Chủ tịch UBND cấp tỉnh không có biển hoặc có biển nhưng không có đảo không có người ở thuộc địa phương trong khi đó quản lý khá nhiều đất đai thuộc lãnh thổ huyện, tỉnh theo địa giới hành chính.

Vì vậy, tôi đề nghị sửa Điều 7 về các nội dung như sau: Bổ sung quy định của Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp tỉnh phải chịu trách nhiệm đối với việc quản lý đất đai trong phạm vi địa giới hành chính của cấp mình.

Về Điều 12 của Dự thảo quy định về Sở hữu đất đai:

Đồng tình với quan điểm quy định tại điểm 1, Điều 12, bởi vì" Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu”, bởi vì: Thứ nhất, chế định sở hữu toàn dân về đất đai là phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, thay mặt toàn dân quản lý và phân bổ đất đai, đảm bảo điều tiết quá trình phân phối đất đai phù hợp với sở hữu toàn dân, bảo đảm công bằng, ngăn ngừa khả năng để một số ít người chiếm dụng phần lớn đất đai một cách bất hợp lý, tạo điều kiện để người dân được tiếp cận bình đẳng và trực tiếp đối với đất đai và xóa bỏ tình trạng một nhóm người dùng độc quyền sở hữu đất đai để bóc lột người sử dụng đất. Thứ hai, chế định sở hữu đất đai toàn dân nhằm ghi nhận thành quả cách mạng về đất đai của dân tộc ta, phù hợp với lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập chủ quyền và dù đất đai vì vậy đất đai phải thuộc về sở hữu của toàn dân. Thứ ba, xét dưới khía cạnh quản lý đất đai, đi đôi với việc giao đất, cho thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất ổn định lâu dài của người sử dụng đất, Nhà nước đã công nhận quyền sử dụng đất là tài sản của người sử dụng đất và trao cho người sử dụng đất thực hiện các quyền giao dịch tài sản đối với các quyền sử dụng đất, tiến hành việc cấp giấy chứng nhận, xác nhận bảo hộ quyền hợp pháp cho họ. Như vậy, quy định này có ưu điểm quan trọng là giữ được ổn định quan hệ đất đai, ngăn ngừa những xung đột, phức tạp về mặt xã hội, mặt lịch sử có thể nảy sinh nếu thay đổi hình thức sở hữu đất đai ở nước ta v.v… Đồng thời quy định như vậy cũng phù hợp với chủ trương của Đảng là tiếp tục đổi mới chính sách pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc tiếp tục quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu như trong dự thảo là phù hợp cả về lý luận cũng như thực tiễn Việt Nam.

- Về giá đất: Đề nghị bỏ Điều 108 về khung giá các loại đất, giá đất thuộc khu vực giáp ranh, bởi lý do sau:

+ Nếu Chính phủ quy định khung giá các loại đất thì sẽ không phù hợp với nguyên tắc xác định giá đất phải phù hợp với giá đất thị trường (giá đất thị trường phụ thuộc nhiều bởi các yếu tố như: Vị trí, thời điểm, thửa đất, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, quy hoạch v.v…) dẫn đến có thửa đất sẽ vượt khung giá đất do Chính phủ ban hành, mà trong thực tế không phải lúc nào cũng điều chỉnh được khung giá đất.

+ Nếu quy định giá đất giáp ranh giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì bản thân khái niệm thế nào là khu vực giáp ranh, trong địa giới hành chính của một tỉnh thì giáp ranh của giáp ranh là như thế nào chưa được làm rõ, nên khó thực hiện.

- Điều 109 về bảng giá đất tôi đồng ý với phương án 2, đây là phương pháp, pháp luật đất đai đang được thực hiện bởi các Nghị định hướng dẫn thi hành mà Dự thảo lần này được luật hoá (phương pháp này vừa đảm bảo giá đất sát giá thị trường và thực hiện được linh hoạt).

- Đồng ý với phương án 1 quy định tại điểm 2, Điều 161 Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất vì những lý do sau đây:

Thứ nhất, theo quy định của pháp luật hiện hành, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Do vậy, việc có một trình tự ghi nhận tính hợp pháp (công chứng) các giao dịch liên quan đến đất đai (ở đây là quyền sử dụng đất) nhằm tăng cường công tác quản lý đất đai của cơ quan nhà nước là việc làm cần thiết.

Thứ hai, thực tế cho thấy, trong một thời gian rất dài, công tác quản lý đất đai của chúng ta chưa tốt, còn có nhiều giao dịch về quyền sử dụng đất phát sinh trong nhân dân mà không được công chứng, chứng thực. Hiện tượng mua đi bán lại bất động sản khá phổ biến, đối tượng của giao dịch cũng đa dạng, từ đất thổ cư, đất vườn đến đất nông nghiệp, lâm nghiệp đều có thể được chuyển nhượng. Điều đó làm cho Nhà nước thất thu thuế, các cơ quan nhà nước gặp nhiều khó khăn trong quản lý, Tòa án khó khăn khi giải quyết tranh chấp… Tôi cho rằng, nếu chúng ta bỏ quy định về công chứng các hợp đồng, giao dịch về quyền sử dụng đất, tình trạng “hỗn loạn” trong quản lý đất đai sẽ càng nghiêm trọng hơn.

Thứ ba, việc công chứng, như ý nghĩa của nó là bảo đảm tính hợp pháp của giao dịch, sẽ bảo đảm lợi ích của các bên. Trong điều kiện hiện nay, dân trí chưa phát triển cao, sự hiểu biết về pháp luật của người dân còn thấp mà chúng ta áp dụng quan điểm để cho người dân tự quyết định việc có hay không thực hiện công chứng dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận trong pháp luật dân sự, theo tôi là chưa hợp lý. Tôi cho rằng, trong điều kiện hiện nay, Nhà nước cần chủ động đặt ra một số trình tự, thủ tục trong đó có công chứng các giao dịch, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân./.

Lê Nghĩa