Cách mạng Tháng Tám mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc. Các giáo sư góp công đầu xây dựng nền Giáo dục đại học Việt Nam là những gương mặt tiêu biểu, cả về đạo đức và tài năng. Ngành y - dược có Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Trần Hữu Tước, Đỗ Xuân Hợp... Ngành văn - sử có Đặng Thai Mai, Nguyễn Văn Huyên, Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Trần Văn Giàu... Ngành toán – lý có Nguyễn Xiển, Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Ngụy Như Kon Tum, Lê Văn Thiêm, Nguyễn Thúc Hào...

Giáo sư Nguyễn Thúc Hào

GS Nguyễn Thúc Hào đã từng giữ chức Tổng Thư ký kiêm Quyền Giám đốc Trường Đại học Khoa học Hà Nội, ngay từ những ngày đầu mở nước dân chủ cộng hòa. Về sau, ông được bầu làm Phó Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam (Chủ tịch là GS Lê Văn Thiêm). Lê Văn Thiêm và Nguyễn Thúc Hào là hai nhà toán học đầu tiên được Nhà nước ta công nhận chức danh Giáo sư đại học.

GS Nguyễn Thúc Hào đã nuôi dạy được nhiều học trò và những người con ưu tú. Các con của của ông: Anh Nguyễn Thúc Hoàng nhiều khoá liền được bầu làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Kiến trúc sư Việt Nam. Anh Nguyễn Thúc Hải, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, nhiều năm làm Chủ nhiệm Khoa Công nghệ Thông tin, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội,...

Nhiều học trò của thầy Hào về sau đã trở thành những gương mặt khoa học quen thuộc, như: Hoàng Tụy, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Đình Tứ, Hà Văn Mạo, Đinh Ngọc Lân, Nguyễn Văn Hiệu, Vũ Đình Cự, Nguyễn Văn Đạo, Phan Đình Diệu, Nguyễn Đình Trí, Văn Như Cương, ... Cũng có người trở thành nhà báo như Nguyễn Hữu Chỉnh, hay nhà ngoại giao như Trịnh Ngọc Thái. Các lớp học trò trong 10 năm thầy dạy tại Trường Quốc học Huế (1935-1945), nhiều người đã trở thành những nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ tên tuổi đi vào sử sách như Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Văn Thương,.. Những năm cuối đời, GS tình nguyện trở về Xứ Nghệ, đảm đương trọng trách Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Vinh, để “trả nghĩa, trả chữ” cho quê hương.

Quê hương hiếu học, nếp nhà Thi Thư

Nguyễn Thúc Hào sinh ngày 6/8/1912 tại Nam Đàn, Nghệ An, trong một dòng họ khoa bảng nổi tiếng. Ông nội là cụ Nguyễn Thúc Kiều, Cử nhân nho học, thầy dạy của nhà chí sĩ Phan Bội Châu. Cha là cụ Nguyễn Thúc Dinh đỗ Phó bảng. Nam Đàn núi cao, sông rộng, có đền thờ Mai Hắc Đế dưới chân rú Đụn, có thị trấn Sa Nam mà sự đông vui nhộn nhịp đã đi vào ca dao: Sa Nam trên chợ dưới đò/ Bánh đúc hai dãy, thịt bò mê thiên.

Giáo sư Nguyễn Thúc Hào và cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng

Năm 1924, mới 12 tuổi, chàng thiếu niên Nguyễn Thúc Hào thi đỗ thủ khoa vào Trường Quốc học Huế. Năm sau, anh Hào chuyển ra Hà Nội, vào học Trường Albert Sarraut cho đến năm 1929 thì sang Pháp, thi đỗ tú tài toán tại Aix-en-Provence. Theo học dự bị đại học tại Trường Saint Louis nổi tiếng ở Paris, anh chuẩn bị thi vào các "trường lớn" của nước Pháp. Nhưng rồi, người miền nhiệt đới không quen chịu rét, anh đành giã từ Paris băng giá, xuống miền nam, theo học Trường Đại học Khoa học Marseille, bên bờ Địa Trung Hải chói chang ánh nắng mặt trời. Sau 4 năm (1931-1935) chăm chỉ học tập, anh thi lấy 6 chứng chỉ: toán học đại cương, giải tích toán học, vật lý đại cương, cơ học lý thuyết, cơ học chất lỏng, và thiên văn học (chỉ cần 3 chứng chỉ là đỗ cử nhân). Ngoài ra, anh còn viết xong luận văn cao học - nay gọi là thạc sĩ - về một đề tài liên quan đến hình học và cơ học. Vào thời ấy mà học cao đến thế là điều quá hiếm trong toàn cõi Đông Dương.

Từ dạy Toán ở Trường Quốc học đến Hiệu trưởng Đại học Khoa học Hà Nội

23 tuổi, trở về Cố Đô, anh trở thành một thầy giáo dạy toán trẻ măng tại Trường Quốc học Huế (lúc bấy giờ gọi là Trường trung học Khải Định). Thời ấy, trong toàn cõi "Đông Dương thuộc Pháp", chỉ vẻn vẹn có 6 trường trung học chuyên khoa quốc lập  (như THPT hiện nay) là: Trường Albert Sarraut và Trường Bưởi ở Hà Nội, Trường Khải Định ở Huế, Trường Chasseloup-Laubat và Trường Pétrus Ký ở Sài Gòn, Trường Yersin ở Đà Lạt.

Những năm 1942-1944, các nhà khoa học Nguyễn Xiển, Hoàng Xuân Hãn, Đặng Phúc Thông... xuất bản Báo Khoa học tại Hà Nội. Tờ báo thu hút sự chú ý của bạn đọc trong nước và cả Việt kiều ở nước ngoài. Ông cùng một số trí thức ở Huế như Tạ Quang Bửu, Phạm Đình Ái... viết nhiều bài lý thú cho Báo Khoa học. Các ông còn hăng hái tham gia Hội Truyền bá Quốc ngữ.

Sau kỳ nghỉ hè năm 1946, Trường Đại học Khoa học Hà Nội lại mở cửa. GS Nguyễn Thúc Hào được Bộ Quốc gia Giáo dục điều từ Huế ra Hà Nội, và tín nhiệm giao trọng trách Tổng Thư ký kiêm Quyền Giám đốc nhà trường.

Và lớp Toán học đại cương trong kháng chiến

Đêm 19/12/1946, đèn thành phố vụt tắt. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Theo chỉ thị của Bộ Quốc gia Giáo dục, GS Hào cùng vợ bế bồng, gồng gánh các con nhỏ đi bộ về phía ga Thường Tín, rồi lại đi tiếp đến tận ga Nam Định, chen lấn xô đẩy, mới bước chân lên được xe lửa, vào Vinh. Gần Tết, thì về tới quê nhà. Ra Giêng, đã nhận được công văn của Bộ: Cần mở ngay Lớp Toán học đại cương! Thế là, chỉ vài tháng sau khi cả nước đứng lên nổ súng đánh trả bọn xâm lược, ở một làng quê Nam Đàn, lớp Toán học đại cương khóa I đã khai giảng trong ngôi nhà thờ họ của cụ Nguyễn Thạc Phỉ (bà con với GS Nguyễn Thạc Cát) gần chợ Liễu, bên sông Lam.

Một anh tú tài ở đất Quảng, trước kia từng theo học thầy Hào tại Trường Quốc học Huế, dạy trung học tại Liên khu V, không có điều kiện vượt Trường Sơn ra Liên khu IV để tiếp tục theo học thầy. Anh biên thư xin thầy tài liệu để tự học. Đến cuối khoá, anh xin dự kỳ thi tốt nghiệp... "từ xa". GS Hào bèn xin phép Bộ được gửi đề thi niêm phong từ Nam Đàn vào cho Sở Giáo dục Liên khu V. Sở mở kỳ thi riêng, chỉ dành cho 2 thí sinh, trong đó có anh sinh viên họ Hoàng kia, xong, thu bài làm, bỏ vào phong bì dán kín, gắn xi, rồi gửi ra Hội đồng chấm thi ở Liên khu IV. Anh sinh viên dòng dõi danh nho đất Quảng ấy đã đỗ, về sau, anh trở thành một nhà toán học nổi tiếng thế giới, được công nhận là "cha đẻ của tối ưu toàn cục" (the father of global optimization). Anh là GS Hoàng Tuỵ, người mà tên tuổi đã in "dấu ấn" trong một số thuật ngữ toán học, như: lát cắt Tuỵ (Tuy's cut), thuật toán kiểu Tuỵ (Tuy-type algorithm), điều kiện không tương thích Tuỵ (Tuy's inconsistancy condition)...

Số sinh viên toán học đại cương ngày ấy về sau hầu hết đều trở thành những nhà khoa học, thầy giáo dạy toán-lý, nhà báo, nhà ngoại giao có uy tín như: Nguyễn Đình Tứ, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Hoàng Phương, Hà Học Trạc, Nguyễn Văn Cung, Hà Văn Mạo, Nguyễn Hữu Chỉnh, Đinh Ngọc Lân, Trịnh Ngọc Thái, Lê Hải Châu, Lê Thạc Cán, Nguyễn Mậu Tùng, Cung Quang Chương, Đinh Ngọc Cẩn, Lê Nguyên Sóc, Nguyễn Trọng Di...

Về quê hương

Từ năm 1951 đến 1954, Trường Dự bị đại học, rồi Trường Sư phạm Cao cấp mở tại tỉnh Thanh Hoá. GS Nguyễn Thúc Hào được Bộ Quốc gia Giáo dục cử vào Ban Giám đốc cùng các Giáo sư Trần Văn Giàu, Đặng Thai Mai, Đặng Xuân Thiều và Nguyễn Mạnh Tường. "Không gian đại học lúc bấy giờ là một mái đình xưa hay vài ngôi nhà mượn của dân. - Trần Quốc Vượng kể lại. Thời gian đại học là màn đêm, dưới ánh đèn "đom đóm". Giáo trình đại học là dăm bảy cuốn sách in ty-pô hay ly-tô gói gọn trong ba-lô dã chiến. Nhưng không khí đại học sao mà hưng phấn lạ thường!"

Giáo sư Nguyễn Thúc Hào và các cán bộ Trường Đại học Vinh.

Hoà bình được lập lại trên miền Bắc, GS Nguyễn Thúc Hào trở về Hà Nội. Ông cùng GS Lê Văn Thiêm dạy toán tại Trường Đại học Khoa học và Trường Đại học Sư phạm Khoa học. Rồi ông được cử làm Phó Hiệu trưởng Trường ĐHSP Hà Nội bên cạnh Giáo sư, Hiệu trưởng Phạm Huy Thông. Lê Văn Thiêm và Nguyễn Thúc Hào là hai nhà toán học đầu tiên được Nhà nước ta công nhận chức danh Giáo sư đại học. Ngoài trách nhiệm Phó Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam, GS Hào còn là đại biểu Quốc hội nhiều khoá, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh Nghệ An, v.v.

Tận tuỵ với nghề, GS Hào biên soạn nhiều bộ giáo trình: Hình học giải tích, Hình học vi phân, Giải tích, Hình học vectơ, Hình học tuyến tính. Trong nhiều năm liền, ông còn dịch sang tiếng Việt 14 cuốn sách toán từ ba thứ tiếng Nga, Anh, Pháp, như: Giải tích tenxơ và hình học Riemann của Rashevsky, Cơ sở lý thuyết mặt của Kagan (từ tiếng Nga); Không gian, thời gian, vật chất của H. Weyl, Toán Ricci của J. A. Schouten (từ tiếng Anh); Không gian liên thông xạ ảnh của Élie Cartan, Xác suất và ứng dụng của H. Cramer, Thuyết tương đối và điện động lực học của A. Lichnerowicz (từ tiếng Pháp), v.v.

Năm 1959, GS Nguyễn Thúc Hào được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng Trường ĐHSP Vinh (tiền thân của Đại học Vinh hiện nay).

Năm học đầu 1959-1960, cơ ngơi của trường chỉ có hai dãy nhà hoang. Thư viện lèo tèo vài nghìn cuốn sách. Cả trường vẻn vẹn có 17 cán bộ giảng dạy, 159 sinh viên. GS Hào cùng tập thể nhà trường và chính quyền địa phương bắt tay "nhen nhóm".

Sau 5 năm, cơ ngơi đã khá: 4 ngôi nhà cao tầng làm thư viện, phòng thí nghiệm, nơi ở, làm việc và học tập cho cán bộ, sinh viên. Số sách trong thư viện lên tới 6 vạn cuốn. Trường đã có 15 phòng thí nghiệm với thiết bị khá đủ. Từ 2 ban Văn-Sử và Toán-Lý, trường xây dựng thành 4 khoa: Văn, Toán, Lý, và Hoá-Sinh, cùng 4 bộ môn trực thuộc, gồm 140 cán bộ giảng dạy. Ba khoá sinh viên đã tốt nghiệp ra trường, đóng góp cho đất nước 1.085 giáo viên THPT trẻ tuổi.

Hè 1964, Mỹ ném bom miền Bắc Việt Nam. Vinh - Bến Thuỷ bị đánh phá dữ dội. Trường sơ tán khỏi thành phố. Trong vòng 18 tháng, 4 lần di chuyển: Từ Vinh ra Nghi Lộc, lên Thanh Chương (Nghệ An); rồi từ Thanh Chương ra tận Hà Trung, Thạch Thành (Thanh Hoá). Hàng nghìn sinh viên, cán bộ dắt díu theo hàng trăm cháu bé, vận chuyển mấy vạn cuốn sách, mấy trăm tấn thiết bị, "hành quân" an toàn qua hơn 300 cây số, vượt nhiều trọng điểm bị đánh phá ngày đêm như Cầu Giát, Hoàng Mai, Tĩnh Gia...

Giữa rừng núi Thạch Thành, sống chung với đồng bào dân tộc thiểu số, thầy, trò vào rừng chặt nứa, đẵn gỗ, dựng lán học, thư viện, phòng thí nghiệm, chỗ ở cho trò, nhà riêng cho thầy, cô có con nhỏ.

Sau 7 năm sơ tán, trường lại trở về Vinh. Nhưng, cay đắng thay, cơ ngơi bao năm vất vả xây đắp đã bị máy bay Mỹ giội bom phá đổ tan tành! Phải làm lại từ đầu...

Năm 1976, thầy Hào về hưu, chuyển ra Hà Nội, sống cùng các con, nhưng vẫn theo dõi từng bước tiến của trường. Năm 1984, phát biểu tại lễ kỷ niệm 25 năm Ngày thành lập trường, thầy nói:

"Trường ĐHSP Vinh đang lớn lên, đẹp về hình dáng cũng như về tâm hồn, xứng đáng là một trong những trường có truyền thống cao quý nhất ở  nước ta."

***

GS Hào và tôi là người đồng hương Nam Đàn, cùng quê Hồ Liễu, xóm dưới, xóm trên. Thuở nhỏ, tôi thường nghe ông nội tôi (cụ Phó bảng Nguyễn Văn Chấn mở trường dạy học ở quê) khuyên bảo: "Lớn lên, cháu phải gắng học cho chăm, cho giỏi theo gương các nhà "tân học" người huyện ta, như ông Tạ Quang Bửu, ông Nguyễn Thúc Hào. Chứ cái vốn "cựu học" của ông, thì giờ đây không còn đắc dụng nữa!"

GS Nguyễn Thúc Hào và Hội Toán học Việt Nam. Từ trái sang phải, hàng đầu: GS Hoàng Tuỵ (thứ 3), GS Nguyễn Thúc Hào (thứ 4), GS Lê Văn Thiêm (thứ 5), GS Nguyễn Cảnh Toàn (thứ 6), GS Nguyễn Đình Trí (thứ 7)..

Có lần đến thăm thầy ở Hà Nội. Đó là một buổi chiều đầu đông mưa bụi. Gia đình thầy sống trong một nếp nhà xuềnh xoàng, bên hồ nước rộng in bóng mây trôi. Tôi chợt nhớ tới bài thơ Đường luật Mừng Thầy do anh Phan Đình Diệu mừng thầy vào dịp thầy Hào thọ tám mươi:

Một tấm gương trong giữ vẹn tròn

Sá bao công lội suối trèo non

Tay dù trắng, đẹp đời trong trắng

Lòng vẫn son, bền chí sắt son

Từng trải nắng mưa, lo nghiệp lớn

Giờ vui mây nước, mảnh tình con

Đời còn sương bụi bao mờ tỏ

Xin hãy long lanh ánh nguyệt tròn.

Là những người trí thức hậu sinh, mỗi khi soi mình vào tấm gương thầy Hào, chúng tôi lại như có thêm niềm tin và nghị lực để giữ gìn nhân cách và phẩm hạnh trước bao cám dỗ lợi, danh: Đời còn sương bụi bao mờ tỏ/ Xin hãy long lanh ánh nguyệt tròn./.