Bảo đảm điều kiện hoạt động công đoàn
Tại khoản 2 Điều 27 quy định thời gian cán bộ công đoàn không chuyên trách được sử dụng giờ làm việc trong một tháng để làm công tác công đoàn theo hướng giữ nguyên như quy định của Luật hiện hành, bởi lý do Báo cáo tổng kết thi hành Luật Công đoàn hiện hành không nêu bất cập nào trong việc thực hiện quy định này thời gian qua và trên cơ sở đề xuất của cơ quan soạn thảo.
ĐBQH Trần Nhật Minh cho biết, qua tiếp xúc với cử tri là cán bộ công đoàn cơ sở về dự án Luật Công đoàn (sửa đổi), nhiều ý kiến cho rằng, quy định về thời gian làm việc của cán bộ công đoàn cơ sở như Luật hiện hành là hết sức bất cập, còn mang tính bình quân, chưa phù hợp với quy mô doanh nghiệp lớn, có số lượng công nhân đông. Vì thực tế, việc các cán bộ công đoàn cơ sở sử dụng 12 giờ hay 24 giờ làm việc/1 tháng để làm công tác đoàn như hiện nay là hết sức hạn chế. Trong khi việc thoả thuận với người sử dụng lao động để có thêm thời gian hoạt động công đoàn cũng hết sức khó khăn, nhất là đối với các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp có đông người lao động cần có nhiều thời gian để hoạt động công đoàn.
Để giải quyết bất cập này, đại biểu cho rằng, không nên quy định cụ thể số lượng thời gian như dự thảo Luật mà chỉ cần quy định nguyên tắc chung “cán bộ công đoàn không chuyên trách được bảo đảm thời gian để thực hiện nhiệm vụ công đoàn và được đơn vị sử dụng lao động trả lương. Tổng thời gian làm việc của toàn bộ cán bộ công đoàn không chuyên trách được xác định trên cơ sở tương ứng với số lượng đoàn viên công đoàn”. Đồng thời, giao Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quy định thời gian làm việc của cán bộ công đoàn cơ sở theo quy mô của từng đơn vị, cơ quan, doanh nghiệp theo hướng như dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ Bảy là hợp lý. Tuy nhiên cần nghiên cứu quy định số lượng thời gian phù hợp, bảo đảm tính khả thi.
Quy định trách nhiệm cho tổ chức công đoàn cấp trên cơ sở
Đồng tình với các biện pháp nhằm bảo đảm cho cán bộ công đoàn hoạt động được quy định tại Điều 28 của dự thảo luật, tuy nhiên đại biểu Trần Nhật Minh đề nghị, tại khoản 2 cần bỏ từ “hoặc” và sửa lại thành “người sử dụng lao động không được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc, sa thải, buộc thôi việc hoặc chuyển làm công việc khác đối với cán bộ công đoàn không chuyên trách nếu không có ý kiến thỏa thuận bằng văn bản của Ban chấp hành công đoàn cơ sở và ý kiến bằng văn bản của Ban chấp hành công đoàn cấp trên trực tiếp...”.
Theo lý giải của đại biểu, tại khoản 2 Điều 27 dự thảo Luật quy định thì các uỷ viên Ban Chấp hành công đoàn cơ sở được người sử dụng lao động trả lương. Do đó nếu quy định như dự thảo Luật dễ xảy ra trường hợp người sử dụng lao động yêu cầu hoặc ép buộc Ban chấp hành công đoàn cơ sở đồng ý thỏa thuận, gây thiệt thòi cho cán bộ công đoàn bị sa thải, thôi việc… Từ đó, dẫn đến tâm lý cán bộ công đoàn không dám đấu tranh vì người lao động. Việc bổ sung quy định phải có ý kiến bằng văn bản của Ban Chấp hành công đoàn cấp trên trực tiếp là hết sức cần thiết, nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của cán bộ công đoàn cơ sở.
Cũng liên quan đến Điều 28, đại biểu đánh giá quy định tại khoản 3 còn chung chung, chưa rõ công đoàn cấp nào có trách nhiệm bảo vệ cán bộ công đoàn cơ sở khi bị chấm dứt hợp đồng, đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ quy định này. Theo , nội dung này nên quy định trách nhiệm cho tổ chức công đoàn cấp trên cơ sở, và sửa đổi lại như sau: “Trường hợp người lao động là cán bộ công đoàn không chuyên trách bị người sử dụng lao động chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc, buộc thôi việc hoặc sa thải trái pháp luật thì Công đoàn cấp trên cơ sở có trách nhiệm yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền can thiệp; nếu được ủy quyền thì công đoàn cấp trên cơ sở đại diện khởi kiện tại Toà án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho cán bộ công đoàn”.
Tiếp tục duy trì nguồn thu 2% kinh phí công đoàn
Đại biểu cũng đề nghị, tiếp tục duy trì mức kinh phí công đoàn 2% được quy định tại Điều 29. Bởi, nguồn thu kinh phí công đoàn đã được duy trì và phát huy hiệu quả sau hơn 60 năm (kể từ khi có Luật Công đoàn vào năm 1957). Nguồn kinh phí này được sử dụng tại công đoàn cơ sở chủ yếu để trực tiếp chăm lo đời sống cho đoàn viên, người lao động, như: thăm hỏi ốm đau, quà sinh nhật, quà Tết hoặc tổ chức các hoạt động văn hoá, thể thao....
Bên cạnh đó, dự thảo Luật cũng bổ sung một số nội dung để phù hợp với thực tiễn, như: quy định tạm dừng, miễn, giảm đóng kinh phí công đoàn đối với tổ chức, doanh nghiệp gặp khó khăn tại Điều 30, nên khi thực hiện chính sách này nguồn thu từ kinh phí công đoàn dự kiến sẽ giảm hơn. Tuy nhiên, khi đó Công đoàn cấp trên vẫn thực hiện hỗ trợ, bảo vệ và duy trì quyền lợi cho đoàn viên, người lao động tại công đoàn cơ sở khi thuộc trường hợp tạm dừng, miễn, giảm đóng kinh phí. Do đó, việc luật hoá và tiếp tục duy trì mức đóng 2% kinh phí công đoàn như quy định của dự thảo luật là hết sức cần thiết, bảo đảm cho công đoàn thực hiện tốt trách nhiệm của mình đối với đoàn viên, người lao động; trách nhiệm trong xây dựng quan hệ lao động hài hoà, tiến bộ, góp phần ổn định và phát triển các cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp.