Dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi) đang trong quá trình lấy ý kiến đóng góp để trình Quốc hội thông qua. Mặc dù đã qua nhiều lần đóng góp ý kiến song vẫn còn nhiều ý kiến chưa thống nhất. Phần lớn, các ý kiến đóng góp xoay quanh các quy định liên quan đến vấn đề phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã dưới góc độ của việc áp dụng thủ tục thanh lý, còn các nội dung liên quan đến phục hồi rất ít được quan tâm. Bởi vì,thực tế vấn đề này chưa được áp dụng trong thực tiễn nên đây không chỉ là vấn đề khó cho người soạn thảo mà cho cả người góp ý. Do đó, dù đã nhiều lần dự thảo, song các quy định về thủ tục phục hồi gần như lặp lại các quy định đã không được áp dụng trong thực tiễn của LPS 2004. Qua nghiên thấy rằngluật phá sản Việt Nam vẫn chưa thực sự tạo điều kiện cho thủ tục phục hồi được thực hiện trong thực tế. Cụ thể:
1. Trình tự thủ tục còn gây khó khăn cho việc áp dụng: Trình tự thủ tục phục hồi là các bước tiến hành từ nộp đơn, thụ lý đến ra quyết định áp dụng phục hồi. Theo Dự thảo LPS thì quy trình này quy định không có gì khác so với quy định của LPS 2004, tức là để được áp dụng thủ tục phục hồi, đương sự (chủ nợ, con nợ, người lao động) phải trải qua rất nhiều bước. Ví dụ theo như quy trình trên, thì đương sự dù mong muốn được áp dụng thủ tục phục hồi vẫn phải làm đơn xin mở thủ tục phá sản. Và việc có được áp dụng thủ tục này hay không phải đợi Hội nghị chủ nợ thông qua. Như vậy đương sự không có quyền trực tiếp nộp đơn xin mở thủ tục phục hồi, mà gián tiếp thông qua mở thủ tục phá sản. Nếu theo quy trình này, có nhiều yếu tố bất lợi cho việc áp dụng thủ tục phục hồi, ở đây xin nêu ra hai tác động chính:
Thứ nhất, sẽ tạo sự bất tiện cho đương sự, đặc biệt là con nợ, ảnh hưởng đến yếu tố tâm lý của con nợ muốn được nộp đơn để áp dụng thủ tục phục hồi để cứu doanh nghiệp mình. Nếu nộp đơn với mong muốn để phục hồi mà tại Hội nghị chủ nợ không thông qua, hay thông qua không đủ số lượng tối thiểu (chưa nói đến yếu tố thực tế, tại các Hội nghị chủ nợ thông thường số lượng chủ nợ không bảo đảm theo quy định của pháp luật) thì sẽ giải quyết thế nào, con nợ sẽ ra sao, thanh lý hay tiếp tục trong tình trạng chờ đợi? Nếu áp dụng thủ tục thanh lý thì trái với mong muốn của con nợ, như thế thì liệu con nợ nào dám nộp đơn để áp dụng thủ tục phục hồi. Hoặc giả, có chủ nợ muốn phục hồi nhưng các chủ nợ khác không mong muốn và biểu quyết không thông qua việc áp dụng thủ tục phục hồi, thì việc nộp đơn của chủ nợ đề xuất áp dụng thủ tục phục hồi không có ý nghĩa.
Thứ hai, trình tự này làm cho cả chủ nợ, con nợ và Tòa án rất bị động trong việc lựa chọn thủ tục áp dụng, trong việc xây dựng phương án phục hồi. Xét từ thời gian nộp đơn của đương sự, đến khi Tòa án ra quyết định áp dụng là một khoảng thời gian khá dài. Mà trong khoảng thời gian này, con nợ chưa xác định được liệu mình có được áp dụng thủ tục phục hồi hay không. Đợi đến khi ra Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất mới được đề xuất áp dụng thủ tục phục hồi, nếu được Hội nghị chủ nợ thông qua thì mới tiến hành xây dựng phương án phục hồi. Việc xây dựng phương án phục hồi phải mất một khoảng thời gian (như quy định của LPS 2004 và Dự thảo LPS là 30 ngày, tối đa là 60 ngày), tiếp đó, phiên họp của Hội nghị chủ nợ sau mới thảo luận và thông qua phương án phục hồi. Như vậy, từ lúc thụ lý cho đến khi ra quyết định áp dụng phục hồi là một khoảng thời gian khá dài. Trong khi đó, nếu thụ lý ngay đơn xin phục hồi thì doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ xác định được thủ tục áp dụng, sẽ tập trung hơn và có nhiều thời gian hơn để xây dựng phương án phục hồi, do đó phương án phục hồi sẽ có khả thi hơn.
Việc kéo dài thời gian để áp dụng thủ tục phục hồi chắc chắn ảnh hưởng đến việc thực hiện các biện pháp tổ chức lại kinh doanh để phục hồi, trong khi đó để phục hồi có cơ hội thành công thì yếu tố kịp thời có ý nghĩa rất lớn. Đây là một yếu tố rất quan trọng trong việc phòng ngừa phá sản. Thực tế cho thấy, với sự biến động nhanh chóng của thị trường, nhiều doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong một khoảng thời gian nhất định, nếu kịp thời áp dụng nhanh chóng các biện pháp tổ chức lại kinh doanh phù hợp với sự hỗ trợ của các chủ nợ - mà kênh chính thức và thực tế nhất là thông qua việc áp dụng thủ tục phục hồi, thì doanh nghiệp đó có nhiều cơ hội được “hồi sinh”.
2. Vẫn còn thiếu quy định về việc bảo toàn tài sản tạo điều kiện quá trình áp dụng phục hồi có tính khả thi
Các biện pháp bảo toàn tài sản là một nội dung rất quan trọng trong luật phá sản. Dự thảo LPS đã có nhiều nội dung mới hơn so với LPS 2004 và các Dự thảo trước. Tuy nhiên, nội dung của các biện pháp bảo toàn tài sản doanh nghiệp mất khả năng thanh toán chủ yếu để “phục vụ” cho việc áp dụng thủ tục thanh lý nhiều hơn là thủ tục phục hồi. Vẫn thiếu một số các quy định để đảm bảo tính khả thi cho việc áp dụng thủ tục phục hồi.
Có thể khẳng định, luật phá sản trước hết là một đạo luật về đòi nợ, và mục đích ban đầu của nó chính là phân chia nợ cho các chủ nợ một cách công bằng, hiệu quả, tránh thất thoát tài sản, tránh con nợ lợi dụng phá sản để tẩu tán tài sản, trốn tránh trách nhiệm. Do đó, đối với thủ tục thanh lý, việc bảo toàn tài sản con nợ là một nội dung cực kỳ quan trọng. Nhưng đối với quan điểm của luật phá sản hiện đại, việc bảo toàn tài sản để áp dụng trong thủ tục phục hồi cũng có ý nghĩa quan trọng không kém. Vì để có cơ hội phục hồi thành công thì tài sản của con nợ (bao gồm cả các tài sản hiện có, tài sản vay, tài sản có bảo đảm hay tài sản không có bảo đảm, các tài sản từ các nhà đầu tư, từ các hợp đồng chưa được thanh toán,...) đều có giá trị trong quá trình áp dụng việc phục hồi. Nếu thiếu đi một trong các loại tài sản đó đều có thể ảnh hưởng, gây khó khăn nhất định cho việc áp dụng các biện pháp tổ chức lại kinh doanh.
Thúy Vinh



