1. Giải pháp khắc phục tình trạng quá tải tại các bệnh viện

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các chính sách phát triển dài hạn liên quan đến việc giảm tải bệnh viện như Quyết định số 30/2008/QĐ-TTg ngày 22/2/2008 về phê duyệt Quy hoạch phát triển mạng lưới khám, chữa bệnh đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020; Quyết định số 2357/QĐ-BYT ngày 05/07/2011 về việc phê duyệt quy hoạch phát triển mạng lưới phòng chống lao và bệnh phổi giai đoạn từ 2011 đến 2020; Quyết định số 47/2008/QĐ-TTg ngày 02/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện và bệnh việnđa khoa khu vực liên huyện sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác giai đoạn 2008-2010; Quyết định 930/QĐ-TTg ngày 30/06/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án "Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các bệnh viện chuyên khoa lao, tâm thần, ung bướu, chuyên khoa nhi và một số bệnh viện đa khoa tỉnh thuộc vùng miền núi, khó khăn sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác giai đoạn 2009 - 2013". Đồng thời, Bộ Y tế ban hành và thực hiện các giải pháp nhằm chấn chỉnh và nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh như: thực hiện Đề án 1816 về luân phiên cán bộ chuyên môn từ bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ bệnh viện tuyến dưới; Chỉ thị 06/2007/CT-BYTban hành ngày 07/12/2007 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh cho nhân dân; Chương trình số 527/CTr-BYT ban hành ngày 18/06/2009 về nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh tại các cơ sở khám chữa bệnh vì mục tiêu đáp ứng sự hài lòng của người bệnh bảo hiểm y tế. Song song với việc đổi mới chính sách, Bộ Y tế đã tiến hành những giải pháp có thể thực hiện ngay trong mỗi cơ sở khám chữa bệnh có thể độc lập thực hiện như: Đã giảm diện tích dành cho khu hành chính, sắp xếp khoa phòng hợp lý, 1.017 bệnh viện năm 2010, đã tăng được 7,5% số giường bệnh thực kê so với năm 2009, trong đó số giường của các bệnh viện trực thuộc Bộ (tuyến Trung ương) tăng 6,5%. Mở rộng loại hình điều trị ngoại trú và triển khai một số mô hình dịch vụ mới trong khám, chữa bệnh. Năm 2010 có trên 14,4 triệu lượt người bệnh điều trị ngoại trú ở các bệnh viện tăng 6 % so với năm 2009 (tăng 2,5% trở các bệnh viện tuyến Trung ương và 1,7% ở các bệnh viện tuyến tỉnh). Nâng cao chất lượng điều trị, giảm ngày điều trị trung bình một cách hợp lý. Nâng cao năng lực cho tuyến y tế cơ sở để có thể thực hiện tốt chăm sóc sức khỏe ban đầu, giảm tình trạng vượt tuyến không cần thiết, luân phiên cán bộ tuyến trên về hỗ trợ kỹ thuật cho cán bộ y tế tuyến dưới; chuyển giao công nghệ cho y tế tuyến dưới. Xây dựng và phát triển hệ thống bệnh viện vệ tinh.Hợp tác chuyên môn với các cơ sở điều trị. Cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh nhân khi đến khám, chữa bệnh; tăng số phòng khám, tăng ca, tăng giờ làm việc. Các bệnh viện đã tăng giờ khám bệnh từ 6 giờ sáng thay vì 7h30 (từ năm 2008) và khám thông tầm tới 19h00; khám bệnh cả những ngày nghỉ, thứ bảy, chủ nhật.

Trong thời gian tới, ngoài việc tiếp tục tiến hành các giải pháp, biện pháp đã thực hiện, Bộ Y tế đồng thời tập trung vào 5 nhóm giải pháp sau: Xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách (xây dựng Đề án giảm tải Bệnh viện, dự kiến sẽ trình Thủ tướng Chính phủ trong năm 2012; Đề án phát triển dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ chất lượng cao; Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính ở các cơ sở y tế công lập; sửa đổi, bổ sung Quyết định 155/2003/QĐ-TTg ngày 30/7/2003 quy định sửa đổi, bổ sung một số chế độ phụ cấp đặc thù đối với công chức, viên chức ngành y tế; Bộ Y tế đangxin phép Chính phủ cho nghiên cứu xây dựng chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với công chức, viên chức ngành y tế và đề nghị nâng mức lương khởi điểm của bác sĩ tương xứng với thời gian đào tạo 6 năm; đổi mới cơ chế quản lý bệnh viện; Đẩy mạnh cải cách hành chính; Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý bệnh viện Nhà nước theo hướng tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm; đẩy mạnh xã hội hoá công tác khám, chữa bệnh; Phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố để có chính sách hỗ trợ cho các nhà đầu tư xây dựng bệnh viện); Bổ sung nguồn lực và tài chính đểđầu tư xây dựng mở rộng và bổ sung các cơ sở khám chữa bệnh, đề nghị Chính phủ tăng tỷ trọng nguồn vốn đầu tư và nguồn kinh phí sự nghiệp cho ngành y tế đảm bảo chi cho y tế/GDP đạt 10%, đảm bảo chi tiêu công cho y tế đạt trên 50% so với 39,3 như hiện nay, sử dụngnguồn vốn trái phiếu Chính phủ, nguồn ODA và các nguồn vốn hợp pháp khác đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 47/2008/QĐ-TTg ngày 02 tháng 4 năm 2008 phê duyệt Đề án đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp bệnh viện bệnh viện đa khoa huyện, đa khoa khu vực liên huyện sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác giai đoạn 2008-2010 và Quyết định số 930/QĐ-TTg ngày 30 tháng 6 năm 2009 phê duyệt đề án "Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các bệnh viện chuyên khoa lao, tâm thần, ung bướu, chuyên khoa nhi và một số bệnh viện đa khoa tỉnh thuộc vùng miền núi, khó khăn sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác giai đoạn 2009-2013”, đề xuất cơ chế thực hiện xã hội hóa dịch vụ giường nằm cho bệnh nhân, mở rộng các bệnh viện Trung ương trên địa bàn Thủ đô Hà Nội. Bộ Y tế sẽ làm việc với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về các Cụm Trung tâm y tế xây dựng mới theo Quy hoạch Thủ đôđược Thủ tướng Chính phủ phê duyệtggày 26/7/2011tại Quyết định số 1259/QĐ-TTg, thay đổi cơ chế tài chính, điều chỉnh giá dịch vụ hợp lý, bảo đảm nguồn tài chính để bệnh viện duy trì và phát triển hoạt động. tăng cường đào tạo phát triển nguồn nhân lực y tế; tăng cường chuyên môn, kỹ thuật như: đổi mới việc xây dựng các quy định về phân tuyến kỹ thuật/điều trị cho phù hợp với năng lực khám, chữa bệnh của cơ sở khám chữa bệnh và ở các tuyến; nâng cao năng lực và phát triển kỹ thuật của tuyến y tế cơ sở. Đồng thời tổ chức sàng lọc bệnh nhân phù hợp với tuyến điều trị, phát triển hệ thống bệnh viện vệ tinh …, nghiên cứu thay đổi giá viện phí cho phù hợp giữa các tuyến, tăng cường giáo dục nâng cao tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp, thái độ phục vụ, ứng xử của cán bộ y tế, … làm tốt công tác y tế dự phòng, chăm sóc sức khỏe ban đầu;Chế tài về hành chính:Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát;Đưa ra các hình thức thi đua khen thưởng thực hiện giảm tải; nghiên cứu xây dựng các hình thức và biện pháp về chế tài để hạn chế chuyển bệnh nhân lên tuyến trên khi mức độ chuyên môn chưa thực sự cần thiết và đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục nhận thức của người dân.

2. Việc ban hành văn bản quy định về quản lý giá thuốc

Bộ Y tế đã soạn thảo và chuẩn bị ban hành Thông tư mới hướng dẫn về quản lý giá thuốc thay thế cho Thông tư liên tịch số 11/2007/TTLT-BYT-BTC ngày 31 tháng 8 năm 2007 hiện hành. Về giải pháp thay đổi cơ chế quản lý giá thuốc, Liên Bộ đã thống nhất giải pháp quản lý giá thuốc bằng phương pháp thặng số bán buôn tối đa toàn chặn. Hiện nay, Bộ Y tế đã thực hiện thí điểm biện pháp này theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Bộ Y tế sẽ triển khai đồng bộ khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép. Về quản lý giá thuốc tại Bệnh viện, Bộ Y tế đã áp dụng Thông tư số 15/2011/TT-BYT ngày 19 tháng 4 năm 2011 quy định về tổ chức và hoạt động của cơ sở bán lẻ thuốc trong bệnh viện. Theo đó, Bệnh viện chịu trách nhiệm quản lý và giá bán lẻ thuốc tại nhà thuốc bệnh viện với mức thặng số bán lẻ từ 2%-15% (giảm so với Quyết định số 24/QĐ-BYT trước đây là từ 5-20%). Về công tác đấu thầu thuốc, Bộ Y tế đã phối hợp với các cơ quan hữu quan đã dự thảo Thông tư liên tịch mới thay thế Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BYT-BTC ngày 10 tháng 8 năm 2007. Hiện nay, dự thảo Thông tư mới đã được hoàn chỉnh, đang được Cục Kiểm soát thủ tục hành chính, Văn phòng Chính phủ xem xét, trước khi hai Bộ ký ban hành.

3. Nguyên nhân và giải pháp khắc phục chất lượng hoạt động y tế dự phòng tại địa phương

Nguyên nhân: Chính sách, quy hoạch và phát triển kinh tế xã hội ở các cấp chưa đề cập đầy đủ những vấn đề liên quan tới công tác dự phòng sức khoẻ cho người dân; Đầu tư cho hệ thống YTDP còn thấp, trong khi nhu cầu thực tế rất cần' có sự ưu tiên kinh phí cho lĩnh vực này. Theo Nghị quyết số 18/2008/NQ-QH12 của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3 dành ít nhất 30% ngân sách y tế cho y tế dự phòng. Tuy nhiên, trong vòng 10 năm gần đây, ngân sách cho y tế dự phòng, năm cao nhất chỉ đạt 20,7%, có năm chỉ là 11,3% trong tổng ngân sách toàn ngành y tế trong khi các hoạt động y tế dự phòng ngày càng đòi hỏi các phương tiện kỹ thuật cao và chi phí lớn hơn; cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập như chính sách thu hút các nguồn nhân lực, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác y tế dự phòng chưa thỏa đáng làm cho cán bộ không yên tâm gắn bó với công tác y tế dự phòng; tình hình dịch bệnh đang diễn biến hết sức phức tạp, nhiều bệnh truyền nhiễm gây dịch có nguy cơ bùng phát trở lại như lao, sốt rét, bại liệt. Bên cạnh đó đã xuất hiện những bệnh mới khó xác định, khó điều trị, có nguy cơ bùng phát thành đại dịch. Các bệnh không truyền nhiễm, tai nạn thương tích (đặc biệt tai nạn giao thông), bệnh học đường, suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi còn cao và có sự chênh lệch lớn giữa các vùng, tình trạng béo phì đang gia tăng.

Giải pháp: Xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch và ưu tiên thực hiện nhiệm vụ đào tạo bác sỹ y tế dự phòng trong các trường Đại học Y, từng bước phát triển nguồn nhân lực cho hệ thống y tế dự phòng cả về số lượng và chất lượng; tăng cường đầu tư ngân sách nhà nước cho công tác y tế dự phòng phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ưu tiên đầu tư cho vùng có mật độ dân số cao, có nhiều nguy cơ lây nhiễm một số bệnh truyền nhiễm; tăng cường hợp tác quốc tế toàn diện về y tế dự phòng; tiếp tục sửa đổi và bổ sung cũng như đề nghị với Nhà nước các chính sách đãi ngộ hợp lý cho cán bộ làm công tác y tế dự phòng; đẩy mạnh công tác truyền thông thay đổi hành vi của người dân về phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe; vận động các cấp .chính quyền quan tâm và đầu tư hơn nữa cho công tác YTDP ở địa phương.

4. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác khám chữa bệnh cho y tế tuyến cơ sở

Bộ Y tế sẽ tiến hành các thực hiện các giải nháp hành chính như: Tiếp tục triển khai thực hiện tốt Chỉ thị 06/2007/CT-BYT ngày 07/12/2007 của Bộ trưởng Bộ Y tế về nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh cho nhân dân, Chương trình sồ 527/CTr-BYT ngày 18/6/2009 của Bộ trưởng Bộ Y tế về nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh tại các cơ sở khám chữa bệnh vì mục tiêu đáp ứng sự hài lòng của người bệnh Bảo hiểm Y tế; cải cách thủ tục hành chính, giảm phiền hà trong tiếp đón, khám, chữa bệnh và thanh toán viện phí; tăng cường tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, nhân viện y tế và các biện pháp khác như Tăng cường nhân lực, chuyên môn, kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát và đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính, điều chỉnh mức thu hợp lý...