1. Biện pháp quản lý và khắc phục trình trạng khai thác tài nguyên khoáng sản, chiến lược phát triển ngành khai khoáng

Bộ tiếp tục hoàn thiện trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Khoáng sản năm 2010 và tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khoáng sản; Quán triệt Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 25/4/2011 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2010 , tầm nhìn đến năm 2030; trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 nhằm định hướng cho hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản theo hướng tăng cường công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản, phát triển bền Tổng công nghiệp khai khoáng, tăng cường chế biến sâu khoáng sản và nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về tài nguyên khoáng sản và bảo vệ khoáng sản chưa khai thác; đề xuất Thủ tướng Chính phu việc rà soát lại các quy hoạch khoáng sản đã phê duyệt nhằm đánh giá những ưu điểm, tồn tại và đề xuất việc xây dựng quy hoạch khoáng sản theo quy đỉnh mới của Luật Khoáng sản năm 2010; thực hiện việc cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản theo đúng quy định của Luật Khoáng sản năm 2010, việc cấp phép phải gắn với chế biến sâu khoáng sản và địa chỉ sử dụng khoáng sản. Đẩy mạnh hoạt động đấu giá quyền khai thác khoáng sản; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát hoạt động khoáng sản; kiên quyết xử lý nghiêm theo quy định các hành vi vi phạm pháp luật về khoáng sản và pháp luật khác có liên quan; Ủy ban nhân dân các địa phương tiếp tục rà soát, có giải pháp nâng cao năng lực cả về bộ máy, cán bộ quản lý và điều kiện cơ sở vật chất để có đủ điều kiện thực hiện các nhiệm vụ đã được phân cấp trong quản lý nhà nước về khoáng sản.

2. Quy hoạch sử dụng đất:

Trong thời gian qua để giải quyết những bất hợp lý trong quy hoạch sử dụng đất tại các khi đô thị, khu công nghiệp gây lãng phí lớn về đất đai, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, hạn chế nguồn lực phát triển của đất nước nói chung và các địa phương nói riêng, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Quyết định số 1013/QĐ-BTNMT ngày 2/8/2006 về việc kiểm tra tình hình sử dụng đất của các quy hoạch, các dự án đầu tư trên địa bàn cả nước; thành lập 05 đoàn kiểm tra tại 15 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Bộ cũng đã tổ chức đoàn công tác triển khai đôn đốc, chỉ đạo các tỉnh, thành phố còn lại thực hiện tốt việc tự kiểm tra; đồng thời tổ chức “Diễn đàn quy hoạch treo, dự án treo” trên trang thông tin điện tử của Bộ và qua điện thoại, thư điện tử, fax, đường thư bưu điện để tiếp nhận những ý kiến, phát hiện của tổ chức, cá nhân về quy hoạch “treo”, giải tỏa “treo” và dự án “treo” nhằm hỗ trợ cho công tác kiểm tra. Trên cơ sở kết quả bước đầu, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 09/2007/CT-TTg ngày 6/4/2007 về tăng cường quản lý sử dụng đất của các quy hoạch và dự án đầu tư. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm chấn chỉnh khắc phục tình trạng dự án “treo” và sử dụng đất sai mục đích, sử dụng đất trái quy định của pháp luật, cụ thể như sau: Tổ chức rà soát, xử lý các quy hoạch có sử dụng đất theo quy định tại khoản 3 Điều 29 của Luật đất đai năm 2003 làm cơ sở xử lý theo các hướng; Những quy hoạch có thể thực hiện sớm thì tập trung nguồn lực để thực hiện ngay; những quy hoạch xét thấy càn nhưng trước mắt chưa có khả năng thực hiện được thì điều chỉnh mốc thời gian thực hiện quy hoạch; Những quy hoạch không hợp lý, không có tính khả thi thì phải quyết định hủy bỏ ngay; Công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng việc điều chỉnh, hủy bỏ quy hoạch. Rà soát, xử lý các dự án sử dụng đất theo quy định tại khoản 12 Điều 38 của Luật Đất đai năm 2003; đôn đốc việc sử dụng đất của các chủ đầu tư. Kiên quyết thu hồi đất các dự án mà chủ đầu tư không có khả năng thực hiện để giao hoặc cho thuê đất đối với tổ chức, cá nhân có năng lực, có nhu cầu thực sự về sử dụng đất đai để thực hiện dự án đầu tư.

Cũng trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 69/2009/N Đ-CP ngày 13/8/2009 quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Đồng thời, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cụ thể hóa các giải pháp nhằm khắc phục dự án “treo” thông qua việc thực hiện các nội dung quy hoạch sử dụng đất được quy định tại Thông tư số 19/2009/TT-BTNMT. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì tổ chức việc lập quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011 – 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 – 2015) cấp quốc gia trình Quốc hội; chỉ đạo các địa phương tiến hành việc lập quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và chuẩn bị hồ sơ trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Để tiếp tục khắc phục tình trạng dự án “treo” và sử dụng đất sai mục đích, trái với quy định của pháp luật, trong thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ triển khai thực hiện một số giải pháp sau đây: Tổ chức hướng dẫn lập, thẩm định xét duyệt quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011 – 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 – 2020) cấp quốc gia được Quốc hội phê duyệt. Tập trung nghiên cứu sửa đổi Luật Đất đai năm 2003. Chỉ đạo các địa phương tăng cường kiểm tra tình hình triển khai thực hiện các dự án sau khi được giao đất, cho thuê đất để có biện pháp xử lý kịp thời những bất cập ở địa phương. Ngoài ra, các Bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục thực hiện các giải pháp đã được quy định trong Chỉ thị số 09/2007/CT-TTg ngày 6/4/2007 về tăng cường quản lý sử dụng đất của các quy hoạch và dự án đầu tư.

3. Về vấn đề ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp, làng nghề và các đô thị

Trước khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có hiệu lực, có khoảng một nửa trong tổng số 160 khu công nghiệp (KCN) đã hoạt động. Hệ thống xử lý nước thải, chất thải rắn và khí thải tại các khu công nghiệp này hầu như không được xâu dựng trước khi lấp đầy các hạng mục công trình. Phần lớn các làng nghề, làng có nghề được hình thành một cách tự phát, quy mô hộ gia đình. Vì vậy, việc xây dựng các công trình xử lý ô nhiễm môi trường trong thời kỳ đó chưa được quan tâm chú trọng. Ngoài ra, một số địa phương còn chưa làm tốt công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.

Trong những năm gần đây, công tác quản lý và bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường KCN nói riêng đã được quan tâm hơn. Các KCN đã có những đóng góp rất quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, công tác xử lý ô nhiễm ở các KCN vẫn chưa đáp ứng được so với yêu cầu đề ra, tình hình môi trường tại một số KCN đã hoạt động vẫn còn gia tăng. Hiện nay có 74 KCN đã đầu tư và đưa vào hoạt động các nhà máy xử lý nước thải tập trung và 22 KCN đang xây dựng công trình xử lý nước thải, còn lại 78 KCN đang hoạt động chưa có công trình xử lý nước thải. Chất rắn ở các KCN ước tính vào khoảng 2.300.000 tấn/năm, trong đó chất thải nguy hại chiếm khoảng 20%. Việc xử lý khí thải tại các KCN còn chưa tốt, nhiều doanh nghiệp ở các KCN cũ không quan tâm đến xử lý khí thải, chưa đầu tư thỏa đáng cho giám sát và xử lý. Công tác bảo vệ môi trường KCN về tổng thể chưa đáp ứng được các yêu cầu bảo vệ môi trường; hoạt động của nhiều KCN còn gây ô nhiễm nghiêm trọng do chất thải, đe dọa tới sự phát triển bền vững loại hình kinh tế này. Thêm vào đó, hiệu quả và hiệu lực quản lý chưa cao do cơ chế quản lý còn chồng chéo, hệ thống văn bản pháp luật chưa hoàn thiện, mạng lưới quan trắc, thống kê nguồn thải chưa đáp ứng yêu cầu, cơ sở dữ liệu còn thiếu.

Bảo vệ môi trường làng nghề đã có những kết quả và chuyển biến tích cực nhưng mới mang tính chất cục bộ, thiếu tính bền vững và nhân rộng. Nhìn chung, ô nhiễm làng nghề trước đây và hiện nay vẫn được coi là nghiêm trọng, đe dọa sự phát triển bền vững các làng nghề ở nước ta. Để khắc phục tình trạng nêu trên, đòi hỏi phải có đồng bộ các giải pháp, liên quan đến nhiều Bộ , ngành, địa phương, doanh nghiệp. Ngày 31/12/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 117/2009/N Đ-CP về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư liên tịch phối hợp phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường với Bộ Công an; ký Nghị quyết liên tịch với 08 tổ chức chính trị - xã hội nhằm tăng cường phối hợp giám sát, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường…

Kể từ năm 2009 đến nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đưa nội dung thanh tra trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường vào kế hoạch kiểm tra, thanh tra hằng năm của Bộ, trong đó tập trung vào công tác quản lý môi trường tại các KCN, các cơ sở gây ô nhiễm môi trường và thanh tra môi trường đã phát hiện và xử lý nhiều vụ việc lớn vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của các KCN, các cơ sở sản xuất. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường, trong đó sẽ tập trung nguồn lực để giải quyết cơ bản tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề và những điểm ô nhiễm môi trường gây bức xúc khác.

Trong thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường; đẩy mạnh các hoạt động giáo dục, truyền thông, nâng cao nhận thức của cộng đồng về bảo vệ môi trường; tăng cường nghiên cứu, xây dựng và chuyển giao các mô hình công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường phù hợp với điều kiện Việt Nam; xây dựng Chiến lược và Kế hoạch hành động quốc gia về bảo vệ môi trường cho giai đoạn 2011 – 2020, Bộ sẽ ban hành Thông tư sửa đổi về bảo vệ môi trường KCN và Thông tư về bảo vệ môi trường làng nghề theo hướng tăng cường trách nhiệm thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường; làm rõ hơn trách nhiệm và nội dung bảo vệ môi trường của các cơ quan quản lý có liên quan ở địa phương cũng như Ban quản lý và các doanh nghiệp ở các KCN; đưa ra lộ trình, nội dung và một số giải pháp trước mắt trong những năm tới để từng bước khắc phục ô nhiễm môi trường tại các KCN, làng nghề và các đô thị.

4. Tình trạng sử dụng đất sai mục đích, trái pháp luật, đất để hoang hóa, lãng phí.

Để sử lý tình trạng dự án “treo” ngày 2/8/2006, Bộ Tài nguyên và Môi trường có Quyết định số 1013/Q Đ-BTNMT về việc kiểm tra tình hình sử dụng đất thuộc các quy hoạch và dự án đầu tư, đã tổ chức nhiều đoàn kiểm tra tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhằm đánh giá sát, đúng tình hình, đề ra các giải pháp nhằm xử lý tình trạng các quy hoạch có nội dung sử dụng đất nhưng không thực hiện (thường gọi là “quy hoạch treo”), tình trạng chậm sự dụng đất đối với các dự án đầu tư (thường gọi là “dự án treo”) và báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Trên cơ sở kết quả kiểm tra, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 09/2007/CT-TTg ngày 6/4/2007 về tăng cường quản lý sử dụng đất của các quy hoạch và dự án đầu tư, giải quyết dứt điểm tình trạng quy hoạch treo. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành công văn số 2836/BTNMT-ĐKTKĐĐ ngày 23/7/2007 chỉ đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương rà soát, xử lý các quy hoạch có sử dụng đất theo quy định tại khoản 3 Điều 29 của Luật Đất đai năm 2003. Kết quả đã thực hiện xử lý 1457 khu quy hoạch “treo”, dự án “treo”.

Để xử lý tình trạng sử dụng đất sai mục đích trái pháp luật, đất để hoang hóa, lãng phí, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 134/CT-TTg ngày 20/1/2010 về kiểm tra xử lý các vi phạm pháp luật đất đai của các tổ chức sử dụng đất, theo đó, đã giao Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ và Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức, chỉ đạo thực hiện để hoàn thành việc rà soát, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật đất đai. Ngày 27/2/2010, Bộ Trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phê duyệt Quyết định số 415/Q Đ-BTNMT ban hành kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 134/CT-TTg. Trong năm 2010 và 2011 đã thành lập 8 đoàn thanh tra tại các thành phố, tổ chức các đoàn công tác và có văn bản đôn đốc các địa phương, tự kiểm tra, xử lý đối với đất của các tổ chức vi phạm theo yêu cầu của chỉ thị số 134/CT-TTg và báo cáo về bộ. Đến nay theo kết quả báo cáo sơ bộ của 58 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã xử lý thu hồi trên 9880 ha đất, lập hồ sơ để thu hồi trên 1300 ha đang xử lý trên 2400 ha. Đặc biệt đã xử lý thu hồi nhiều khu đất có giá trị cao (đất “vàng”) tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đất đai nói chung và hạn chế tình trạng vi phạm, sử dụng lãng phí đất đai nói riêng, Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ triển khai đồng bộ các giải pháp sau: Sau khi Quốc hội thông qua quy hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 – 2015) cấp quốc gia, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ chỉ đạo UBND các cấp triển khai lập quy hoạch sử dụng và tăng cường công tác, kiểm tra giám sát việc sử dụng đất cúa các tổ chức sau khi được nhà nước giao, cho thuê để đảm bảo sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn tài nguyên đất. Bộ Tài nguyên và Môi trường sẻ tổ chức sửa đổi luật đất đai 2003 đê Chính phủ trình Quốc hội thông qua nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đất đai.

5. Tại các khu công nghiệp chưa có nhà máy xử lý nước thải tập trung.

Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết tháng 6 năm 2011, cả nước có 260 khu công nghiệp được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 71.394 ha, bao gồm cả các khu công nghiệp nằm trong các khu kinh tế. Trong đó có 173 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 43.718 ha, 87 khu công nghiệp đang trong giai đoạn đền bù gỉai phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản.

Trong đó 173 khu công nghiệp đang haotj động hiện nay, có 105 khu công nghiệp ( chiếm 60%) có hệ thống xử lý nước thải tập trung, 42 khu công nghiệp đang xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung dự kiến vận hành cuối năm 2011. Có một thực tế đang diễn ra phổ biến trong hoạt động công nghiệp, thậm chí là các cơ quan quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế chưa có sự quan tâm đầy đủ, thỏa đáng cho công tác bảo vệ môi trường. Điển hình là còn đến 26 khu công nghiệp đang hoạt động ở các địa phương chưa đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung, chưa kể nhiều hệ thống xử lý nước thải tập trung đã vận hàng cũng chưa hoàn toàn đạt quy chuẩn ký thuật quốc gia về môi trường.

Trong những năm qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã quan tâm, chú ý nhiều tới công tác bảo vệ môi trường khu công nghiệp. Theo quy định tại Thông tư số 08/2009/TT-BTNMT ngày 15/7/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các khu công nghiệp, khu kinh tế đi vào hoạt động đều phải đầu tư hệ thống hạ tầng bảo vẹ môi trường và nhà máy xử lý nước thải phù hợp với tiến trình lấp đầy, thời hạn hoàn thành vào cuối cùng là 31/12/2010. Việc không thực thi nghiêm các quy định của Pháp luật về bảo vệ môi trường trước hệt là do chính các khu công nghiệp và khu kinh tế đã không tuân thủ nghiêm túc chính sách, pháp luật của nhà nước, Ban quản lý các khu công nghiệp, khu kinh tế và cơ quan quản lý môi trường các cấp cũng chưa thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát, chỉ đạo theo chức năng. Để khắc phục tình trạng nêu trên, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang tiến hành và sẽ tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra hoạt đọng cảu các khu công nghiệp, đặc biệt là những khu công nghiệp chưa đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm các khu công nghiệp vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Đồng thời, Bộ sẽ tiếp tục chỉ đạo và phối hợp với UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương vào cuộc quyết liệt; yêu cầu Ban quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế và chủ đầu tư các khu công nghiệp thực hiện nghiêm túc cam kết đầu tư đồng bộ hạ tầng bảo vệ môi trường phù hợp với tiến độ lấp đầy; kiên quyệt xử lý, kể cả biện pháp tạm dừng hoạt động đối với những khu công nghiệp không tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường.