1. Tiền lương của cán bộ , công chức, viên chức

Chế độ tiền lương đối với cán bộ , công chức sau gần 8 năm thực hiện chưa đạt được các mục tiêu đề ra đúng như ý kiến của Đại biểu nêu. Bộ Nội vụ đang phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan xây dựng đề án cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công giai đoạn 2012-2020 để báo cáo Chính phủ trình Hội nghị Trung ương 5 khóa XI của Đảng vào tháng 4/2012 theo các định hướng sau: Xác định những ngành, lĩnh vực cần chú trọng ưu tiên giải quyết vấn đề tiền lương để tạo động lực phát triển kinh tế- xã hội. Cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công đối với từng khu vực: hành chính, sự nghiệp, lực lượng vũ trang, doanh nghiệp, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công, đông thời cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước theo hướng: Tiền lương của cán bộ, công chức lực lượng vũ trang do ngân sach nhà nước bảo đảm, hình thành từ nguồn ngân sách nhà nước cấp và nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp luật. Tiền lương đối với người lao động trong doanh nghiệp được thực hiện theo cơ chế riêng và tính trong giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Lương hưu của người nghỉ hưu trước năm 1995 và trợ cấp ưu đãi người có công do ngân sách nhà nước bảo đảm và tính trong chi ngân sách nhà nước cho an sinh và phúc lợi xã hội. Lương hưu của người nghỉ hưu từ năm 1995 và trợ cấp ưu đãi người có công do ngân sách nhà nước bảo đảm và tính trong chi ngân sách nhà nước cho an sinh và phúc lợi xã hội. Lương hưu của người nghỉ hưu từ 1995 trở về sau do quỹ bảo hiểm xã hội bảo đảm. Cải cách chính sách tiền lương phải tiến tới bảo đảm cho cán bộ công chức và lực lượng vũ trang sống được bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội gắn cải cách tiền lương với cải cách hành chính. Đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công, đổi mới phương thức hoạt động, cơ chế tài chính và tiền lương đối với khu vực sự nghiệp công lập theo hướng thu phí dịch vụ tính đủ tiền lương và từng bước tính đủ các chi phí khác, tiếp tục hỗ trợ cho các đối tượng chính sách xã hội và người nghèo sử dụng dịch vụ công. Thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.

Sau khi có kết luận của hội nghị Trung ương V khóa XI, Bộ Nội vụ sẽ phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan trình cấp có thẩm quyền triển khai thực hiện các nội dung của đề án. Tuy nhiên để đảm bảo tiền lương thực tế cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tái cấu trúc nền kinh tế, đảm bảo an sinh và phúc lợi xã hội.

2. Đầu tư cho công nghệ thông tin nhằm cải cách hành chính giảm nhẹ biên chế

Đầu tư và ứng dụng công nghệ thông tin là biện pháp quan trọng để xử lý và điều hành công việc của cán bộ, công chức. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ thông tin từng bước mở rộng vào xử lý công việc hành chính đòi hỏi phải có tính đồng bộ giữa đầu tư trang thiết bị với đào tạo bổ sung kiến thức về công nghệ thông tin. Trong những năm qua, việc tăng biên chế chủ yếu để tăng cường quản lý nhà nước về môi trường, đất đai, biển và hải đảo; thi đua, khen thưởng; dân tộc, tôn giáo; du lịch; ngoại vụ; dân số, kế hoạch hóa gia đình; quản lý thị trường; thanh tra giao thông; thanh tra xây dựng; thanh tra lao động; thuế, hải quan; thi hành án dân sự; lực lượng kiểm lâm; tăng cường quản lý nhà nước về y tế; kiểm soát thủ tục hành chính; quản lý nhà nước về công tác thanh niên. Những địa phương có Nghị định của Chính phủ về thành lập mới đơn vị hành chính cấp huyện cũng cần bổ sung điều chỉnh biên chế để thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Như vậy việc bổ sung biên chế công chức hàng năm là một yêu cầu khách quan do nhu cầu thực tế đòi hỏi. Về lâu dài phải có một số biện pháp đồng bộ, khoa học, trong đó có tính tới yếu tố về ứng dụng công nghệ thông tin để xác định biên chế công chức, bảo đảm biên chế đúng theo vị trí việc làm, đúng về chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo và đủ về số lượng, cơ cấu theo ngạch. Trong thời gian tới, Bộ Nội vụ đẩy mạnh thực hiện xác định vị trí việc làm và cơ cấu công chức theo luật cán bộ, công chức; qua đó xác định biên chế phù hợp nhằm tạo cơ sở cho cải cách tiền lương có tính khả thi và đem lại hiệu quả trên thực tế.

3. Nghị Định 92 về chế độ chính sách với cán bộ, công chức ở cấp xã và người hoạt động khối chuyên trách

Căn cứ Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 92/2009/NĐ-CP trong đó đã đổi tên “Cán bộ không chuyên trách” thành “người hoạt động không chuyên trách” cho phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 84 Luật Cán bộ, công chức; đồng thời quy định số lượng những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã từ 19 đến 22 người (theo phân loại xã) và ở mỗi thôn, tổ dân phố không quá 3 người. Chính phủ giao UBND cấp tỉnh trình HĐND cùng cấp quy định cụ thể chức danh những người hoạt động không chuyên trách bảo đảm phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Theo đó việc quy định các chức danh trong “Văn phòng Đảng ủy xã”, “Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy xã” hoặc bố trí cán bộ chuyên trách xã kiêm nhiệm là thuộc thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh. Trường hợp bố trí cán bộ chuyên trách kiêm nhiệm thì cán bộ đó vừa hưởng lương do Chính phủ quy định vừa hưởng phụ cấp do HĐND cấp tỉnh quy định; trường hợp không bố trí kiêm nhiệm thì người hoạt động không chuyên trách hưởng phụ cấp do HĐND tỉnh quy định. Chế độ làm việc của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố do tổ chức Đảng, đoàn thể, chính trị xã hội và chính quyền cấp xã phân công phù hợp với quy định của pháp luật và điều lệ của tổ chức ở cơ sở nhiều trường hợp còn kiêm nhiệm thêm một số chức danh không chuyên trách khác và hưởng phụ cấp chức danh kiêm nhiệm do HĐND cấp tỉnh quy định.

- Về chế độ phụ cấp và khoán kinh phí hoạt động: tại Điều 14 nghị định số 92/2009/NĐ-CP quy định mức phụ cấp cao nhất đối với người hoạt động không chuyên trách là 1,0 so với mức lương tối thiểu là để bảo đảm sự thống nhất giữa các địa phương và bảo đảm tương quan với hệ số lương của công chức cấp xã chưa qua đào tạo chuyên môn có hệ số lương là 1,18, đồng thời thực hiện khoán kinh phí chi trả phụ cấp đối với những người hoạt động không chuyên trách và khoán kinh phí hoạt động của các đoàn thể ở cấp xã theo số lượng những người hoạt động không chuyên trách.

- Về chế độ bảo hiểm xã hội và chế độ bảo hiểm y tế, Nghị định số 92/2009/NĐ-CP quy định những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố là đối tượng hưởng phụ cấp (không thuộc đối tượng hưởng lương) nên theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và Nghị định số 190/2007/N Đ-CP ngày 28/12/2007 của Chính phủ thì không phụ thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng đối tượng tham gia bảo hiểm y tế theo quy định của luật bảo hiểm y tế và Nghị định số 62/2009/NĐ-CP ngày 27/7/2009 của Chính phủ với mức đóng góp bảo hiểm y tế (đơn tính từ ngày 1/1/2010) bằng 4,5% mức lương tối thiểu, trong đó người hoạt động không chuyên trách đóng 1/3, UBND xã đóng 2/3. Việc quy định những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố đã được nêu tại các Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX, Trung ương 6 khóa X của Đảng và đã được quy định tại Luật Cán bộ. Vì vậy để có đủ căn cứ hoàn thiện chế độ, chính sách đối với các đối tượng này cần phải tiền hành tổng kết các nghị quyết của Đảng tử đó xem xét, sửa đổi, bổ sung Luật cán bộ, công chức sửa đổi bổ sung Nghị định số 92/2009/NĐ-CP cho phù hợp. Trước mắt thực hiện hiện tốt việc khoán kinh phí hoạt động nhằm khuyến khích người hoạt động không chuyên trách kiêm nhiệm chức danh để được hưởng phụ cấp cao hơn.

Về chế độ chính sách đối với đội ngũ “cán bộ xã” đã có thời gian công tác lâu dài theo cách quy định về cán bộ cấp xã trước đây, nay do yêu cầu chuẩn hóa cán bộ phải nghỉ việc. Bộ Nội vụ được phân công trình Chính phủ Nghị định về công chức xã, phường, thị trấn; trong dự thảo Nghị định có quy định chế độ thôi việc đối với công chức cấp xã, nếu dự thảo Nghị định được Chính phủ ban hành thì công chức cấp xã được hưởng chế độ thôi việc trong các trường hợp: theo nguyện vọng và được UBND cấp huyện đồng ý; do 2 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ theo quy định tại khoản 3 Điều 58 Luật Cán bộ, công chức.

4. Chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp trong thời kỳ bao cấp trước đây không được hưởng chế độ chính sách như cán bộ xã

Căn cứ ý kiến, kiến nghị của cử tri và chất vấn của ĐBQH trong nhiều khóa về giải quyết chế độ chính sách đối với Chủ nhiệm Hợp tác xã quy mô toàn xã trong thời kỳ bao cấp trước từ năm 2001 đến nay. Bộ Nội vụ (trước đây là Ban tổ chức cán bộ Chính phủ) đã có 3 lần trình Chính phủ (2001, 2003, 2006) với nội dung đối với cán bộ trước đây có thời gian làm chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp có quy mô toàn xã, sau đó chuyển sang làm cán bộ cấp xã (theo quy định tại Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ (khi nghỉ việc cộng thời gian công tác trước và sau khi làm chủ nhiệm HTX mà chưa đủ 15 năm công tác thì được cộng thêm thời gian làm chủ nhiệm HTX cho đủ 15 năm để hưởng chế độ hưu trí; nếu công thêm toàn bộ thời gian làm chủ nhiệm HTX vẫn chưa đủ 15 năm thì hưởng chế độ trợ cấp thôi việc 1 lần theo số năm công tác của cán bộ xã. Chủ nhiệm HTX nông nghiệp, đồng thời là phó bí thư hoặc thường vụ đảng ủy cấp xã được tính hưởng bảo hiểm xã hội theo quy định tại điểm 15 và 16 thông tư 13/NV ngày 4/9/1972 của Bộ Nội vụ, nghị định số 09/1998/NĐ-CP. Chủ nhiệm HTX nông nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp hoặc chủ nhiệm HTX ngành nghề khác mà không phải phó bí thư hoặc thường vụ đảng ủy cấp xã nếu được tính hưởng bảo hiểm xã hội sẽ phát sinh bất hợp lý đối với những cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước có thời gian làm chủ nhiệm HTX những đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, nghỉ chế độ 1 lần mà không được tính thời gian làm chủ nhiệm HTX để hưởng bảo hiểm xã hội.

Việc hồi tố chế độ, chính sách đối với các trường hợp nêu trên là rất phức tạp, vì vậy tại công văn số 2881/VPCP-VX ngày 28/6/2001 của Văn phòng Chính phủ đã thông báo ý kiến của phó thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng như sau: “Đây là vấn đề liên quan đến chính sách chung, vì vậy không nên đặt vấn đề tính thời gian làm chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, đánh cá, làm muối quy mô toàn xã vào thời gian hưởng bảo hiểm xã hội đối với một số cán bộ cấp xã đang giữ chức danh trong diện hưởng bảo hiểm xã hội theo quy định tại nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ”. Tiếp theo, tại công văn số 6722/VPCP-VX ngày 15/11/2006 của Văn phòng Chính phủ đã thông báo ý kiến của Phó thủ tướng thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng như sau: “Yêu cầu Bộ Nội vụ thực hiện ý kiến chỉ đạo tại công văn số 2881/VPCP-VX ngày 28/6/2001 của Văn phòng Chính phủ. Riêng đối với những người trước đây đang hưởng chế độ bảo hiểm xã hội đã được cấp có thẩm quyền quyết định điều động làm cán bộ lãnh đạo HTX quy mô toàn xã, giao Bộ nội vụ chủ trì phối hợp với Bộ Lao động, thương binh và xã hội, Bộ Tài chính và bảo hiểm xã hội Việt Nam đề xuất giải quyết chế độ trong nội dung sửa đổi, bổ sung Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, trình Chính phủ”.

Thực hiện ý kiến của các Phó thủ tướng thường trực Chính phủ, khi trình Chính phủ ban hành Nghị định số 92/2009/n Đ-CP thay thế Nghị định số 121/2003/N Đ-CP, Bộ Nội vụ đã trao đổi và lấy ý kiến của các Bộ, cơ quan liên quan để giải quyết vấn đề nêu trên, nhiều ý kiến đề nghị không đưa vào Nghị định của Chính phủ mà cần nghiên cứu giải quyết bằng một văn bản của thủ tướng Chính phủ. Theo đó, Bộ Nội vụ đã có công văn 912/BNV-CQĐP ngày 29/3/2010 chỉ đạo làm điểm ở tỉnh Quảng Bình. Qua điều tra 361 chủ nhiệm HTX cho tỉnh Quảng Bình đề nghị cho thấy chỉ có 5/361 (gần 1.4%) là đúng đối tượng được xem xét, giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội. Số chủ nhiệm HTX không đúng đối tượng xem xét, giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội là 356/361 người (hơn 98,6%). Từ kết quả khảo sát, điều tra Bộ Nội vụ tiếp tục xin ý kiến các bộ, cơ quan liên quan trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, giải quyết theo hướng: Đối với những người là Phó bí thư hoặc thường vụ đảng ủy xã kiêm chủ nhiệm HTX toàn xã đang công tác hay đã nghỉ việc, nếu chưa được giải quyết chế độ chính sách thì được xem xét giải quyết chế độ như quy định tại thông tư số 13/NV ngày 4/9/1972. Đối với những người không đủ điều kiện để xem xét giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội thì UBND cấp tỉnh lập danh sách đề nghị Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn khen thưởng, biểu dương công trạng đối với thành tích làm chủ nhiệm HTX trong thời bao cấp trước đây.

5. Về công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, đánh giá cán bộ nữ

Thực hiện mục tiêu bình đẳng giới trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia, Bộ Nội vụ đã xây dựng để Chính phủ trình Quốc hội ban hành luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Luật Viên chức 2010, trong đó một trong các nguyên tắc quản lý cán bộ công chức và viên chức là thực hiện bình đẳng giới. Để khắc sự bất cập trong các khâu quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ nữ, cũng như thực hiện tốt hơn các mục tiêu về bình đẳng giới, trong thời gian tới, Bộ Nội vụ dự kiến tập trung vào một số giải pháp sau: Nghiên cứu trình Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện thống nhất trong cả nước về nội dung tăng cường cho phụ nữ tham chính trong các cơ quan nhà nước như quy định về quy hoạch, tạo nguồn cán bộ nữ, tỷ lệ nữ để bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan nhà nước đảm bảo mục tiêu bình đẳng giới và phù hợp với tình hình thực tế của nước ta. Phối hợp với các cơ quan Trung ương và địa phương triển khai thực hiện công tác quy hoạch dài hạn cán bộ quản lý, lãnh đạo nữ, tạo tiền đề cho giai đoạn 2016 – 2020: Tiến hành khảo sát, đánh giá về thực trạng đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý cấp trung ưng và cấp địa phương; xây dựng kế hoạch và quy hoạch bố tri, sắp xếp cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương; hướng dẫn cụ thể các cơ quan chủ quản trong công tác sắp xếp bổ nhiệm cán bộ nữ chủ chốt các ngành trung ương và các tỉnh, thành phố, trong việc chuẩn bị nhân sự cho nhiệm kỳ bầu cử Quốc hội, HĐND các cấp và cơ quan dân cử nhiệm kỳ 2016 – 2020 theo thẩm quyền được giao. Triển khai đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ quản lý, lãnh đạo và đội ngũ cán bộ nữ trong diện quy hoạch, tạo nguồn cho giai đoạn 2016 – 2020. Tăng cường cơ chế phối hợp với các cơ quan hữu quan của Đảng, nhà nước, Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương thống nhất thực hiện có hiệu quả công tác cán bộ nữ theo mục tiêu đề ra của chương trình quốc gia về bình đẳng giới.

6. Hiệu quả của việc triển khai Nghị định số 13/2008/NĐ - CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Nghị định số 14/NĐ- CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

Về cơ bản, Nghị định số 13/NĐ - CP và số 14/CP - NĐ được ban hành trên cơ sở kế thừa tính hợp lý và khắc phục những văn bản tương ứng trước đó. Vấn đề cơ bản nhất là đã phân định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi, đối tượng quản lý của từng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện. Theo đó đã tinh gọn số lượng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND từng cấp. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, vẫn còn một số hạn chế, một số chức năng, nhiệm vụ chưa thực sự phù hợp hoặc còn có sự chồng chéo, giao thoa...

Để khắc phục những hạn chế đó, Bộ Nội vụ đưa ra hướng giải quyết trong thời gian tới như sau: Bộ Nội vụ trực tiếp chủ trì và phối hợp với các Bộ ngành liên quan đánh giá, đề xuất sửa đổi một số nội dung Nghị định 13 và Nghị định 14. theo hướng vừa áp dụng mô hình tổ chức thống nhất trên phạm vi toàn quốc, vừa chú ý để có thể hình thành một số cơ quan chuyên môn phù hợp với yêu cầu quản lý ngành, lĩnh vực ở địa phương. Nghiên cứu, khảo sát, đánh giá, để có cơ sở điều chỉnh hợp lý, khắc phục sự chồng chép hoặc bỏ tróng về chức năng, nhiệm vụ theo hướng: Tăng cường hơn nữa quản lý nhà nước đối với một số lĩnh vực đang đặt ra cấp thiết trong tình hình mời; rà soát điều chỉnh, khắc phục những chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, làm rõ mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan để xác định trách nhiệm của cơ quan chủ trì với cơ quan phối hợp. Hiện nay, Bộ Nội vụ đang chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan soạn thảo Nghị định quản lý vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp trình Chính phủ ban hành, Nghị định này sẽ bải bỏ những quy định về biên chế sự nghiệp tại Nghị định số 71/2003/NĐ - CP ngày 19/6/2003 của Chính phủ về phân cấp quản lý biên chế hành chính, sự nghiệp nhà nước.