1. Về phối hợp để đánh giá tình hình sản xuất Muối ở nước ta giữa Bộ Công Thương và Bộ Nông Nghiệp & Phát triển Nông thôn.
Trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ được Chính phủ giao, Bộ Công Thương và Bộ Nông Nghiệp & Phát triển Nông thôn luôn có sự phối hợp để xử lý những vấn đề có liên quan đến trách nhiệm của 2 Bộ. Việc đánh giá sản lượng, cân đối cung cầu Muối hàng năm thuộc phạm vị trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn. Căn cứ đánh giá cung cầu của Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, hàng năm, Bộ Công Thương trao đổi thống nhất với các Bộ: Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn và Bộ Tài chính để công bố lượng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu Muối, bảo đảm tuân thủ cam kết gia nhập WTO và bảo hộ ngành sản xuất Muối trong nước.
Về những thuận lợi và khó khăn trong sản xuất Muối ở nước ta:
Nước ta có bờ biển dài, khí hậu thuận lợi cho sản xuất Muối. Tuy nhiên, thời gian qua, sản xuất muối phụ thuộc vào diễn biến thời tiết, vì vậy sản lượng không ổn định; Việc đầu tư công nghệ sản xuất mới, áp dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng muối chưa hiệu quả, chưa đáp ứng đủ nhu cầu về số lượng và chất lượng cho một số ngành sản xuất, yêu cầu chất lượng cao như hóa chất, dược phẩm... Muối tính khiết để phục vụ sản xuất y tế hiện nay nước ta phải nhập khẩu hoàn toàn, Muối sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu muối công nghiệp để sản xuất trong nước.
Hàng năm, nước ta cần 1,3 – 1,4 triệu tấn muối trong khi sản lượng trung bình hàng năm mới đạt khoảng 1 triệu tấn (không kể những năm đặc biệt như năm 2008, do thời tiết không thuận lợi cho sản xuất nên mất mùa, sản lượng chỉ đạt khoảng 900 nghìn tấn, năm 2010 thời tiết thuận lợi cho sản xuất, sản lượng đạt xấp xỉ 1,2 triệu tấn và năm 2011 sản lượng dự kiến chỉ đạt 800 nghìn tấn). Về chất lượng, do chủ yếu được sản xuất bằng phương pháp thủ công nên muối trong nước có hàm lượng NaCl không cao, độ kết tinh kém, hàm lượng tạp rất cao...
2. Căn cứ để Bộ Công Thương cấp hạn ngạch thuế quan
Để cấp hạn ngạch thuế quan nhập khẩu muối, Bộ Công Thương đã căn cứ vào nhu cầu sử dụng muối phục vụ cho sản xuất công nghiệp, y tế của các doanh nghiệp và cam kết của Việt Nam trong WTO đối với mặt hàng muối và quy định quản lý nhập khẩu muối hiện hành. Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã đạt được cam kết áp dụng cơ chế quản lý nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan đối với một số mặt hàng nông sản, trong đó có muối (hình thức cam kết bảo hộ được ngành sản xuất và hỗ trợ cho Nông dân, trước khi chuyển sang giai đoạn tự do hóa thương mại hoàn toàn đối với hàng nông sản). Theo nguyên tắc này, lượng muối nhập khẩu trong hạn ngạch thuế quan sẽ được hưởng mức thuế nhập khẩu thấp hơn, nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan sẽ phải chịu mức thuế cao hơn và muối không phải là mặt hàng cấm nhập khẩu.
Căn cứ cam kết WTO, Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ và Thông tư hướng dẫn thực hiện của Bộ Thương Mại (nay là Bộ Công Thương) số 04/2006/TT-BTM ngày 04 tháng 04 năm 2006, hàng năm Bộ Công Thương trao đổi với Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn và Bộ Tài Chính về sản lượng, cân đối cung cầu để thống nhất công bố lượng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu, bảo đảm tuân thủ cam kết gia nhập WTO và bảo hộ ngành sản xuất muối trong nước.
Căn cứ tổng lượng hạn ngách thuế quan nhập khẩu công bố hàng năm, Bộ Công Thương cáp Giấy phép nhập khẩu cho các Thương nhân trực tiếp sử dụng muối làm nguyên liệu phục vụ sản xuất tiêu thụ trong nước (trên cơ sở xác nhận của Bộ Quản lý sản xuất chuyên ngành).
Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn vào cuối năm 2010, sản lượng muối sản xuất trong nước năm 2011 dự kiến đạt khoảng 1 triệu tấn (nhu cầu sử dụng muối hàng năm khoảng 1,3 -1,4 triệu tấn). Nhằm bảo hộ tối đa sản xuất muối trong nước năm 2011, sau khi làm việc với các Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, Bộ Tài chính và Báo cáo Thủ tướng Chính phủ, ngày 31 tháng 12 năm 2010 Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 45/2011/TT-BCT công bố lượng hạn ngạch thuế quan muối năm 2011 là 102 nghìn tấn (trong khi số lượng tối thiểu phải công bố cam kết gia nhập WTO là 182 nghìn tấn) và quy định 2 nhóm đối tượng phân giao hạn ngạch thuế quan nhập khẩu muối, gồm:
100.000 tấn phân giao cho các Thương nhân trực tiếp sử dụng muối công nghiệp làm nguyên liệu sản xuất hóa chất. Trong đó đến nay mới phân giao đợt 1: 50.000 tấn muối, chưa phân giao số lượng 50.000 tấn còn lại.
2.000 tấn phân giao cho các Thương nhân trực tiếp sử dụng muối tinh khiết làm nguyên liệu sản xuất thuốc, sản phẩm y tế. Đến nay mới phân giao 1.100 tấn.
Hạn ngạch thuế quan nhập khẩu 50.000 tấn muối công nghiệp đợt 1 được Bộ Công Thương phân giao cho 3 doanh nghiệp sản xuất hóa chất. Khi nhập khẩu, doanh nghiệp phải nộp thuế nhập khẩu là 15%. Cho đến nay, sản xuất hóa chất, sản xuất thuốc... là những ngành đã đầu tư máy móc, công nghệ hiện đại, yêu cầu chất lượng đối với Muối –Nguyên liệu đầu vào rất cao (Hàm lượng NaCl, độ kết tinh, độ tinh khiết...). Trong khi muối sản xuất trong nước chủ yếu bằng phương pháp thủ công, chất lượng không bảo đảm, số lượng hạn chế... Trong bối cảnh như vậy, việc nhập khẩu muối để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp là cần thiết.
Để quản lí việc sử dụng muối nhập khẩu đúng mục đích, trong giấy giép cấp cho dooah nghiệp, Bộ Công Thương quy định rõ “ Chỉ để phục vụ sản xuất, không được trao đổi hàng hóa, kinh doanh thương mại” (Đối với doanh nghiệp phát hiện vi phạm quy định này như thông tin đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng thời gian qua, Bộ Công Thương sẽ xem xét xử lý nghiêm khắc).
Trong thời gian qua, giá muối thấp, việc tiêu thụ muối của Diêm dân có lúc còn khó khăn. Để bảo hộ sản xuất trong nước, hỗ trợ việc tiêu thụ muối của Diêm dân khi sản lượng tăng mạnh như trong năm 2010 các Bộ: Công Thương và Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép thực hiện các biện pháp: Ngừng cấp giấy phép nhập khẩu đối với lượng hạn ngạch thuế quan còn lại, yêu cầu các doanh nghiệp sản xuất đã được cấp giấy phép ưu tiên sử dụng muối trong nước, hạn chế nhập khẩu, tổ chức thu mua tạm trữ muối cho Diêm dân, tăng cường kiểm tra các doanh nghiệp được cấp phép nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan bảo đảm sử dụng muối đúng mục đích.
Theo chỉ đạo của Chính phủ, trong năm 2010, Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn đã giao nhiệm vụ cho Tổng công ty Lương thực miền bắc tổ chức thu mua muối tạm trữ, bảo đảm cho Diêm dân có lãi 20 -30% (tổng lượng đã mua tạm trữ khoảng 56.000 tấn).
Ngày 26 tháng 9 năm 2011 vừa qua, Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn đã có quyết định số 2227/QĐ-BNN-CB phê duyệt đề án thu mua muối và sản xuất, cung ứng muối I ốt. Theo đó, Tổng công ty lương thực miền bắc được giao nhiệm vụ thu mua hàng năm 200.000 tấn muối với mức giá bảo đảm có lãi từ 20 -30%, giúp ổn định sản xuất và nâng cao mức sống của người dân sản xuất muối, đồng thời cung ứng đủ muối I ốt cho người dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn.
Ngoài ra, các Bộ đã ban hành các quy định thắt chặt quản lý chất lượng muối nhập khẩu thông qua biện pháp kỹ thuật. Trong năm 2010, Bộ Công thương đã ban hành Thông tư số 23/2010/TT-BCT ngày 20 tháng 5 năm 2010 quy định việc nhập khẩu muối và Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn ban hành quyết định số 1871/QĐ-BNN-CB ngày 05 tháng 7 năm 2010 quy định tạm thời thủ tục xác nhận chất lượng muối nhập khẩu. Năm 2011, nhằm tiếp tục áp dụng biện pháp kỹ thuật để kiểm soát nhập khẩu muối, bảo vệ sản xuất trong nước và hạn chế việc nhập khẩu các loại muối ngoại chất lượng thấp, Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn đã chủ trì phối hợp với các Bộ: Công Thương, Tài chính ban hành thông tư số 60/2011/TT-BNNPTNT hướng dẫn kiểm tra chất lượng muối nhập khẩu. Theo đó, tất cả các loại muối nhập khẩu phải đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật do Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn quy định.
3. Trong điều kiện hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng và việc vận hành theo cơ chế thị trường hiện nay, ngoài việc áp dụng hàng rào thuế quan, chúng ta không thể áp dụng các biện pháp hành chính thông thường để cấm hoặc hạn chế nhập khẩu muối, nhất là trong bối cảnh sản lượng sản xuất trong nước không ổn định, không đáp ứng yêu cầu chất lượng làm nguyên liệu sản xuất trong công nghiệp. Để sớm khắc phục tình trạng này ngành sản xuất muối, đặc biệt là sản xuất muối chất lượng cao cần có sự hỗ trợ của nhà nước. Ngoài chính sách “tam nông” đã có, cần có chính sách hỗ trợ riêng cho ngành muối với những biện pháp cụ thể như sau:
- Xây dựng quy hoạch phát triển ngành muối, tập trung phát triển những vùng thuận lợi sản xuất muối, chuyển đổi các vùng sản xuất muối kém hiệu quả sang sản xuất các ngành nghề khác.
- Ưu tiên nguồn vốn để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án cải tạo, nâng cấp đồng muối; khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất muối; tập trung đầu tư sản xuất muối chất lượng cao, khuyến khích đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến muối tinh.
- Thực hiện xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường xuất khẩu các loại muối có ưu thế.
- Áp dụng các biện pháp thu hút chất xám cho ngành muối, kiện toàn các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học về muối; triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học nhằm đổi mới công nghệ sản xuất, tăng năng xuất, chất lượng muối, đa dạng hóa sản phẩm.
Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Nghệ An trân trọng chuyển ý kiến trả lời của Bộ Công thương tới cử tri và các cơ quan liên quan được biết theo dõi và giám sát tiến độ thực hiện../.
N.M



