1. Biện pháp để giải quyết triệt để tình trạng muối trong nước tồn đọng, rớt giá nhưng vẫn nhập khẩu muối công nghiệp, muối ăn
Về những thuận lợi và khó khăn trong sản xuất muối ở nước ta: Nước ta có bờ biển dài, khí hậu thuận lợi cho sản xuất muối. Tuy nhiên, thời gian qua, sản xuất muối phụ thuộc vào diễn biến thời tiết, vì vậy sản lượng không ổn định; việc đầu tư công nghệ sản xuất mới, áp dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng muối chưa hiệu quả, chưa đáp ứng đủ nhu cầu về số lượng và chất lượng cho một số ngành sản xuất, có yêu cầu chất lượng cao như hóa chất, dược phẩm…
Các biện pháp điều hành nhập khẩu muối năm 2010 và năm 2011: Bộ Công thương đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép thực hiện các biện pháp: ngừng cấp giấy phép nhập khẩu đối với lượng hạn ngạch thuế quan còn lại, yêu cầu các doanh nghiệp sản xuất đã được cấp giấy phép ưu tiên sử dụng muối trong nước, hạn chế nhập khẩu, tổ chức thu mua tạm trữ muối cho diêm dân, tăng cường kiểm tra các doanh nghiệp được cấp phép nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan bảo đảm sử dụng muối đúng mục đích; Tăng cường quản lý chất lượng muối nhập khẩu; Có chính sách hỗ trợ riêng cho ngành muối với các biện pháp cụ thể như: Xây dựng quy hoạch phát triển ngành muối; Ưu tiên nguồn vốn để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án cải tạo, nâng cấp đồng muối; Thực hiện xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường xuất khẩu các loại muối có ưu thế; Áp dụng các biện pháp thu hút chất xám cho ngành muối.
Về phối hợp giữa Bộ Công thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Căn cứ đánh giá cân đối cung cầu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công thương trao đổi thống nhất với các Bộ: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính để công bố lượng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu muối, bảo đảm tuân thủ cam kết gia nhập WTO và bảo hộ ngành sản xuất muối trong nước.
Căn cứ để Bộ Công thương cấp hạn ngạch thuế quan: Để cấp hạn ngạch thuế quan nhập khẩu muối, Bộ Công thương đã căn cứ vào nhu cầu sử dụng muối phục vụ cho sản xuất công nghiệp, y tế của các doanh nghiệp và cam kết của Việt Nam trong WTO đối với mặt hàng muối và quy định quản lý nhập khẩu muối hiện hành. Bộ Công thương đã ban hành Thông tư số 45/2010/TT-BCT công bố lượng hạn ngạch thuế quan muối năm 2010 là 102.000 tấn (trong khi số lượng tối thiểu phải công bố theo cam kết gia nhập WTO là 182.000 tấn). Hạn ngạch thuế quan nhập khẩu 50.000 tấn muối công nghiệp đợt 1 được Bộ Công thương phân giao cho 3 doanh nghiệp sản xuất hóa chất. Hiện nay muối sản xuất trong nước chủ yếu bằng phương pháp thủ công, chất lượng không bảo đảm, số lượng hạn chế… Do đó, việc nhập khẩu muối để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp là cần thiết.
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trong năm 2010, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã giao nhiệm vụ cho Tổng công ty Lương thực miền Bắc tổ chức thu mua muối tạm trữ, bảo đảm cho diêm dân có lãi 20 – 30% (tổng lượng đã mua tạm trữ khoảng 56.000 tấn). Để sớm khắc phục tình trạng nhập khẩu muối như hiện nay, cần có chính sách hỗ trợ riêng cho ngành muối với những biện pháp cụ thể như sau: Xây dựng quy hoạch phát triển ngành muối, tập trung phát triển những vùng thuận lợi sản xuất muối, chuyển đổi các vùng sản xuất muối kém hiệu quả sang sản xuất các ngành nghề khác. Ưu tiên nguồn vốn để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án cải tạo, nâng cấp đồng muối; khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất muối; tập trung đầu tư sản xuất muối chất lượng cao, khuyến khích đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến muối tinh. Thực hiện xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường xuất khẩu các loại muối có ưu thế. Áp dụng các biện pháp thu hút chất xám cho ngành muối, kiện toàn các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học về muối; triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học nhằm đổi mới công nghệ sản xuất, tăng năng suất, chất lượng muối, đa dạng hóa sản phẩm.
2. Chiến lược phát triển ngành khai khoáng; cấp phép hoạt động khoáng sản
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Bộ Công thương và các cơ quan liên quan đang hoàn thiện các dự thảo: Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Khoáng sản; Nghị định của Chính phủ quy định đấu giá quyền khai thác khoáng sản; Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo yêu cầu tạm dừng việc cấp giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản trong phạm vi cả nước từ ngày 30/8/2011 cho đến khi có chỉ đạo mới; Bộ Công thương sẽ ban hành Thông tư mới hướng dẫn về xuất khẩu khoáng sản thay thế Thông tư số 08/2008/TT-BCT theo hướng không xuất khẩu một số loại khoáng sản quan trọng và không xuất khẩu khoáng sản thô.
3. Tình hình giá cả không ổn định, vật tư nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi, xăng dầu làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống người dân
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Trong thời gian tới, Bộ Công thương tiếp tục chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương điều tiết cân đối cung cầu đối với từng mặt hàng thiết yếu, bảo đảm kết hợp hợp lý, gắn sản xuất trong nước với điều hành xuất nhập khẩu; thường xuyên theo dõi sát diễn biến thị trường trong nước và quốc tế để kịp thời có biện pháp điều tiết, bình ổn thị trường, nhất là các mặt hàng thiết yếu; chủ động các biện pháp chống đầu cơ, nâng giá…
Giải pháp đối với các mặt hàng cụ thể: Đối với xăng dầu, Bộ Công thương đã và tiếp tục phối hợp với Bộ Tài chính (là cơ quan chủ trì) để sử dụng hiệu quả các công cụ phí, thuế, quỹ bình ổn xăng dầu, điều hành giá xăng dầu linh hoạt, đúng quy định tại Nghị định số 84/2009/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu. Tích cực triển khai quy hoạch phát triển hệ thống sản xuất, hệ thống phân phối các mặt hàng thiết yếu trong đó có mặt hàng xăng dầu, phân bón đã được phê duyệt, qua đó nâng cao năng lực sản xuất trong nước, giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu. Phát triển hệ thống phân phối theo chiều sâu, tăng mối liên kết giữa các khâu nhằm kiểm soát giá bán và chất lượng sản phẩm đến người tiêu dùng cuối cùng. Nhân rộng và phát triển mô hình tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư nông nghiệp nhằm cung ứng tốt hơn các mặt hàng vật tư nông nghiệp cho các vùng nông thôn với giá hợp lý. Bộ Công thương phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn rà soát cung cầu các mặt hàng vật tư nông nghiệp và xây dựng kế hoạch bảo đảm cân đối cung cầu cho năm tiếp theo. Chỉ đạo lực lượng quản lý thị trường tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý giá, đầu cơ, găm hàng, tung tin thất thiệt…
4. Kinh doanh xăng dầu của Petrolimex, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của Petrolimex
Về vấn đề kinh doanh xăng dầu và lỗ/lãi của Tổng công ty xăng dầu Việt Nam: Đối với mặt hàng dầu (diesen, dầu hỏa và mazut): Nhà nước tiếp tục áp dụng cơ chế bù lỗ đến hết năm 2008, kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2009 các đầu mối nhập khẩu xăng dầu phải tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh đối với các mặt hàng này; Đối với mặt hàng xăng: Nhà nước chấm dứt cơ chế bù lỗ kể từ ngày 20/6/2004 do đó việc kinh doanh các mặt hàng xăng được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Vì vậy, kết quả hoạt động kinh doanh xăng dầu chung của Petrolimex qua các năm đều lỗ (trừ năm 2009). Đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh khác và dịch vụ (ngoài kinh doanh xăng dầu): Petrolimex tổ chức kinh doanh đảm bảo bù đắp chi phí và có lãi. Trong đó lợi nhuận trước thuế các năm 2008, 2009 và 2010 lần lượt là 1.018; 3.216 và 314 tỷ đồng. Về một số Công ty Xăng dầu địa phương báo cáo lãi: Theo cơ chế điều hành kinh doanh xăng dầu nội bộ Petrolimex, Văn phòng Tổng Công ty xác định giá bán nội bộ cho các Công ty Xăng dầu thành viên theo mục tiêu đề ra là phù hợp với thị trường; bù đắp đủ giá vốn; chi phí kinh doanh trong một năm kế hoạch; Công ty thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách với nhà nước theo quy định; và công ty có tích lũy để đầu tư phát triển (nếu có). Đồng thời, do điều kiện kinh doanh ở mỗi Công ty, mỗi địa bàn, mỗi vùng thị trường là khác nhau nên kết quả kinh doanh xăng dầu (lãi/lỗ) của mỗi Công ty cũng khác nhau.
Về vấn đề quản lý nhà nước và cơ chế điều hành giá xăng dầu: Hiện nay công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của Petrolimex dựa trên cơ sở Nghị định số 84/2009/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu. Hàng năm, căn cứ kế hoạch Nhà nước do Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo, Bộ Công thương giao chỉ tiêu nhập khẩu tối thiểu cho Petrolimex; liên Bộ Công thương – Tài chính – Lao động, Thương binh và Xã hội giao chỉ tiêu đơn giá tiền lương. Điều hành giá xăng dầu hiện nay đang được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 84/2009/NĐ-CP với nguyên tắc cơ bản là: “Giá bán xăng dầu được thực hiện theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp được quyền tự định giá, có sự quản lý của Nhà nước”. Theo chức năng quản lý Nhà nước, Bộ Tài chính là cơ quan chủ trì về quản lý giá nói chung, trong đó có giá mặt hàng xăng dầu nói riêng. Bộ Công thương là cơ quan phối hợp điều hành, quản lý xăng dầu.
5. Tập đoàn Điện lực Việt Nam đầu tư phát triển viễn thông điện lực và một số lĩnh vực khác kém hiệu quả, trong khi thiếu vốn đề đầu tư phát triển lĩnh vực chính là điện
Sau khi trung ương và Chính phủ có chủ trương yêu cầu các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước phải tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính, hạn chế và tiến tới chấm dứt các hoạt động ngoại ngành, để tập trung vốn cho việc đầu tư các dự án điện. Năm 2011, Hội đồng thành viên Tập đoàn điện lực Việt Nam đã có các Nghị quyết thông qua chủ trương tiếp tục thoái vốn tại các Công ty liên kết, Công ty bất động sản, Ngân hàng An Bình trên nguyên tắc bảo toàn vốn. Công ty thông tin Viễn thông điện lực là công ty hạch toán độc lập được giao nhiệm vụ tổ chức hoạt động kinh doanh dịch vụ viễn thông công cộng theo hình thức tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh theo quy địh của pháp luật.
Để xảy ra thua lỗ trong kinh doanh viễn thông công cộng, trách nhiệm đầu tiên thuộc về Công ty thông tin Viễn thông điện lực đã không lường hết được những khó khăn, cạnh tranh gay gắt của thị trường viễn thông ở Việt Nam để có chiến lược kinh doanh phù hợp, năng động, các quyết sách nhanh chóng để bảo toàn và phát triển thị phần của mình. Tiếp đến là trách nhiệm của Tập đoàn điện lực Việt Nam đã không có những chỉ đạo kịp thời khi tình hình thị trường biến động xấu tác động đến công tác kinh doanh của Công ty Viễn thông điện lực. Tuy nhiên với vai trò quản lý nhà nước về ngành điện, với tư cách là Bộ trưởng quản lý ngành, tôi cũng có phần trách nhiệm mếu việc kinh doanh viễn thông điện lực của Công ty thông tin viễn thông điện lực làm ảnh hưởng điều hành sản xuất và vận hành hệ thống điện. Hiện nay Công ty cổ phần Viễn thông Hà Nội cũng đã gửi văn bản lên Thủ tướng Chính phủ và các bộ ngành xin mua lại toàn bộ EVN telecom. Tuy nhiên, chấp hành chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Tập đoàn Điện lực Việt Nam vẫn đang tích cực triển khai các công việc để thực hiện sáp nhập EVN Telecom vào Viettel.



