I. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:

Nghệ An là tỉnh có số lượng người có công với cách mạng đứng thứ 2 trong cả nước. Có 535.238 người có công với cách mạng, trong đó, số người còn sống là 328.700. Tính đến quý III/2011, tỉnh đang quản lý và chi trả trợ cấp thường xuyên cho 86.000 đối tượng, với số tiền trên 77 tỷ đồng/tháng.

Trong thời gian qua, việc thực hiện các chế độ, chính sách người có công với cách mạng được tỉnh quan tâm, chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả.

- Sau khi Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng được ban hành, UBND tỉnh đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Pháp lệnh từ cấp tỉnh đến cấp xã, phân công rõ trách nhiệm của từng thành viên.

Ban hành 07 văn bản QPPL nhằm cụ thể hóa Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng và 14 văn bản hướng dẫn thực hiện.

Ngoài ra, UBND tỉnh còn quan tâm ban hành nhiều chế độ chính sách đặc thù của tỉnh đối với người có công với cách mạng như: Quyết định số 40/2006/QĐ-UBND ngày 22/03/2006 về chính sách hỗ trợ thương binh, bệnh binh đang điều dưỡng tập trung tại các khu điều dưỡng của tỉnh về sinh sống tại gia đình; Quyết định 69/2006/QĐ-UBND ngày 19/72006 của UBND tỉnh về phân công, phân cấp quản lý thực hiện một số chế độ chính sách đối với người có công với cách mạng; Quyết định 89/2007/QĐ-UBND về chính sách đào tạo nghệ và giải quyết việc làm cho con thương binh nặng; Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành chỉ thị số 06/CT/TU ngày 17/01/2007 về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác thương binh, liệt sỹ, người có công, phong trào đền ơn đáp nghĩa…

- UBND tỉnh chỉ đạo Sở Lao động, Thương binh và Xã hội ký kết chương trình phối hợp cùng Đài phát thanh truyền hình tỉnh, Báo Nghệ An mở các chuyên trang, chuyên mục nhằm tuyên truyền về các văn bản chính sách mới; tổ chức tập huấn cho tất cả các cán bộ làm công tác Lao động TBXH ở huyện và xã, phường.

- Về việc triển khai thực hiện chính sách người có công với cách mạng đã được các cấp chính quyền, các ngành chức năng quan tâm giải quyết, đảm bảo kịp thời, đúng quy trình và đúng đối tượng.

Tính đến thời điểm hiện nay, toàn tỉnh đã xác nhận 15.626 trường hợp thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, 1.811 liệt sỹ, xác nhận và trả trợ cấp cho 410.717 người hoạt động kháng chiến được tặng thưởng huân, huy chương.

+ Đối với việc xác nhận và giải quyết chế độ cho người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học được tiến hành chặt chẽ, phân công chịu trách nhiệm xem xét, thẩm định, xác minh cụ thể từ cấp xã, huyện, tỉnh, nhằm đảm bảo đúng đối tượng, đủ điều kiện cả về pháp luật và thực tiễn. Tính đến ngày 30/11/2011, toàn tỉnh đã xác nhận 15.939 người được hưởng trợ cấp chất độc hóa học. Trong đó, người trực tiếp 9.501, người gián tiếp là 6.438 người.

+ Về thực hiện chính sách đối với thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sỹ: ngoài việc triển khai thực hiện các chế độ theo quy định của nhà nước, Nghệ An còn ban hành một số chính sách ưu đãi, đặc thù cho thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ như: đào tạo nghề, giải quyết việc làm, ưu tiên cho vay vốn sản xuất, xuất khẩu lao động, hỗ trợ làm nhà tình nghĩa, cấp đất làm nhà ở…

+ Việc hỗ trợ người có công giải quyết nhà ở, xoá nhà tranh tre dột nát đã được các cấp, chính quyền quan tâm và sự đóng góp của nhân dân trong tỉnh nên nguồn thu quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” trong những năm qua ở Nghệ An luôn vượt và đạt chỉ tiêu đề ra. Với sự cố gắng của cấp ủy, chính quyền và nhân dân tỉnh Nghệ An đã tạo sự chuyển biến tích cực trong việc thực hiện chính sách và chăm sóc đời sống gia đình người có công với cách mạng.

+ Đội ngũ cán bộ làm công tác Lao động, Thương binh và Xã hội được tỉnh quan tâm, từng bước kiện toàn, bố trí phù hợp nhằm đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ được giao.

+Thường xuyên tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.

Nhìn chung, việc thực hiện chính sách chế độ cho người có công với cách mạng nói chung và cho người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học trong thời gia qua ở tỉnh Nghệ An đã thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận; công tác chi trả chế độ kịp thời, đúng, đủ theo quy định; việc xác nhận, công nhận mới đối tượng người có công với cách mạng đúng quy trình, chặt chẽ và công khai dân chủ được nhân dân ủng hộ, góp phần ổn định tình hình xã hội trên địa bàn.

II. TỒN TẠI, HẠN CHẾ.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện chính sách, pháp luật về người có công với cách mạng trên địa bàn tỉnh Nghệ An vẫn còn một số tồn tại:

- Số lượng đối tượng chính sách đông nên vẫn còn một lượng lớn hồ sơ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc chưa được giải quyết, nhất là hồ sơ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học có bệnh án điều trị bệnh theo Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT (bệnh án điều trị sau tháng 4/2009) theo quy định của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đến nay chưa được tiếp nhận hồ sơ, xem xét, thẩm định, giới thiệu đi giám định phơi nhiễm chất độc điôxin.

- Tình trạng thực hiện sai, sót đối tượng vẫn còn. Một số đối tượng không thuộc diện chính sách ưu đãi, nhưng do quá trình thực hiện chưa được giám sát chặt chẽ nên được xét hưởng; trong khi đó, một bộ phận người có công thật sự nhưng do thất lạc giấy tờ cần thiết lại chưa được hưởng chính sách ưu đãi. Việc giám sát thực hiện ở các cấp còn nhiều hạn chế.

- Một số cựu Thanh niên xung phong đã hoàn thành nhiệm vụ trong kháng chiến và cựu dân công hoả tuyến phục vụ các chiến trường bị thương nhưng do mất hết giấy tờ, đơn vị đã giải thể nên việc xác nhận để giải quyết chế độ người hưởng chính sách như thương binh vẫn không thực hiện được.

- Việc cấp, đổi bằng “Tổ quốc ghi công” thuộc thẩm quyền triển khai chậm.

- Vẫn còn một bộ phận gia đình chính sách, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc đời sống còn khó khăn, là hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo.

- Những việc làm tình nghĩa và phong trào chăm sóc người có công chưa được thực hiện thường xuyên, chưa phát triển đồng đều ở các địa phương, nhất là những nơi kinh tế chậm phát triển; có nơi phong trào mới chỉ tập trung trong dịp 27 tháng 7 hàng năm, ngày lễ, tết.

- Công tác đền ơn đáp nghĩa ở một số nơi chưa gắn với việc giáo dục truyền thống, tuyên truyền mục đích, ý nghĩa của phong trào, tôn vinh người tốt, việc tốt mà còn nặng về hoạt động quyên góp, giúp đỡ vật chất.

III. NGUYÊN NHÂN CỦA TỒN TẠI, HẠN CHẾ.

1. Nguyên nhân khách quan:

- Hệ thống pháp luật về chính sách cho người có công với cách mạng còn nhiều bất cập, một số văn bản hướng dẫn không đồng bộ, chồng chéo khiến cho quá trình triển khai gặp rất nhiều khó khăn, ở mỗi địa phương lại có những cách hiểu khác nhau không tạo sự đồng thuận trong nhân dân. Các văn bản hướng dẫn thực hiện chế độ cho người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học còn nhiều sơ hở, không chặt chẽ và thiếu tính thực tế.

- Thủ tục hành chính đối với việc lập, xác nhận hồ sơ cho những người tham gia kháng chiến còn phức tạp, rườm rà, nhiều vấn đề nảy sinh không được kịp thời giải quyết.

- Các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng hiện hành đều quy định việc công nhận, xác nhận đối tượng phải căn cứ vào hồ sơ gốc. Thực tế, có nhiều trường hợp đối tượng thực sự tham gia các cuộc kháng chiến nhưng đến nay bản thân hoặc gia đình không còn lưu trữ được các giấy tờ theo quy định nên không có căn cứ để xem xét, giải quyết.

- Việc xác nhận người được hưởng chính sách như thương binh được thực hiện theo Thông tư số 25/2007/TT- BLĐTBXH ngày 15/11/2007 hướng dẫn bổ sung và thực hiện ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Nên trong quá trình thực hiện rất khó khăn vì trong thực tế những thanh niên xung phong, dân quân du kích, dân công hoả tuyến hiện nay tuổi đã cao, sức khoẻ yếu, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bản thân không lưu giữ được các loại giấy tờ nên rất khó khăn trong việc xác lập thủ tục để thực hiện chế độ.

2. Nguyên nhân chủ quan:

- Sự lãnh đạo, chỉ đạo của chính quyền các cấp một số nơi chưa quyết liệt; công tác tuyên truyền chưa thực sự hiệu quả, một số chế độ, chính sách khi đến được với người được hưởng thì lại quá muộn.

- Trình độ chuyên môn của một số cán bộ làm công tác chính sách ở cơ sở còn hạn chế, trách nhiệm chưa cao.

- Nhận thức của một bộ phận nhân dân chưa đúng nên đã lợi dụng những sơ hở của văn bản để vận dụng làm hồ sơ nhằm hưởng chế độ, gây khó khăn cho các cơ quan thực hiện chế độ chính sách.

IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT.

1. Đề nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định trong các văn bản:

Qua giám sát, Đoàn ĐBQH tỉnh Nghệ An nhận thấy một số quy định về chính sách cho người có công còn bất cập. Đề nghị Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan xem xét, sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn cụ thể hơn:

a. Đối với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

- Nghiên cứu để sửa đổi Luật Bảo hiểm y tế. Theo đó, quy định thân nhân liệt sỹ được hưởng mức bảo hiểm y tế 100% (hiện nay chỉ được mức 80% là chưa công bằng với các đối tượng khác)

- Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét sửa đổi điểm 5, điều 32, Pháp lệnh ưu đãi người có công vì không phù hợp với tình hình thực tế. Theo Pháp lệnh quy định: người hoạt động kháng chiến được tặng thưởng huân chương, huy chương kháng chiến mà đã được xét trả trợ cấp ưu đãi huân, huy chươngrồi thì không thuộc đối tượng được xét thưởng là người trong gia đình được xét thưởng là người trong gia đình được tặng huy chương kháng chiến nữa. Quy định như vậy là không phù hợp vì cá nhân được tặng thưởng huân, huy chương kháng chiến là sự nghi nhận thành tích của cá nhân trong thời kỳ kháng chiến. Còn người trong gia đình được tăng huy chương kháng chiến (gọi là huy chương gia đình) là xét thành tích cống hiến của gia đình vì đã góp công, góp của trong kháng chiến. Hai thành tích trên hoàn toàn khác nhau.

b. Đối với Chính phủ, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội:

- Tại Nghị định 54/2006/NĐ-CP:

+ Tại điều 6, mục 1, phần a quy định: Con liệt sĩ bệnh tật nặng từ nhỏ, khi hết hạn hưởng trợ cấp tuất mà suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên. Đề nghị quy định rõ các bệnh tật nặng, độ tuổi, hoàn cảnh gia đình để có cơ sở xem xét giải quyết.

+ Điều 14, mục 1: Trường hợp thương binh có vết thương nặng, hoặc có tình trạng thương tật đặc biệt khác thì được hưởng trợ cấp thương tật đặc biệt. Đề nghị quy định rõ tình trạng thương tật đặc biệt để dễ áp dụng chính sách.

+ Điều 24: Nên có hướng dẫn cụ thể về con dị dạng, dị tật, hoàn cảnh gia đình để có cơ sở giải quyết. Cần có quy định rõ thế nào là giảm tự lực trong sinh hoạt đối với con của người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học.

+ Điều 5, mục 2: Trường hợp vợ hoặc chồng liệt sỹ chăm sóc bố, mẹ liệt sỹ khi còn sống. Đề nghị nên tính thời gian chăm sóc bao gồm cả thời gian phụng nhưỡng.

- Thông tư 25/2007/TT-BLĐTBXH:về việc giải quyết 2 chế độ vừa là thương binh, vừa là bệnh binh hoặc mất sức lao động. Thực tế những đối tượng là bệnh binh nhưng sau này mới lập hồ sơ giải quyết tồn đọng theo thông tư 18, thông tư 16 thì được hưởng cả 2 chế độ. Trong khi đó thương binh ở trong chiến trường ra được an dưỡng tại các đoàn an dưỡng, khi ra quân về nghỉ chế độ bệnh binh thì trong biên bản giám định có ghi tình trạng thương tật hoặc tỷ lệ thương tật thì lại không được hưởng. Đề nghị Chính phủ giải quyết cho đối tượng này được hưởng 2 chế độ nhằm đảm bảo tính công bằng.

- Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ngày 20/02/2008của Bộ Y tế quy định danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm chất độc hóa học/dioxin tuy có bệnh được quy định cụ thể nhưng còn quy định rất chung gây khó khăn cho việc xác nhận đối tượng để giải quyết chế độ. Trong khi đó, một số đối tượng là người trực tiếp tham gia kháng chiến tại các vùng có chất độc hóa học nhưng biểu hiện bệnh lý không nằm trong danh mục bệnh tật quy định tại Quyết định này nên không có điều kiện để chi phí lệ phí giám định và tiền tàu xe đi lại để giám định bệnh tật.

- Thông tư 16/2006/TTLT-BLĐTBXH-BGDĐT–BTCngày 20/11/2006 quy đinh chỉ áp dụng chế độ ưu đãi trong giáo dục đào tạo đối với con bị dị dạng, dị tật của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học. Quy định này trái với quy định của Pháp lệnh.

- Công văn số 423/TBLSNCC ngày 15/05/2007của Cục thương binh, liệt sỹ và người có công hướng dẫn “tại thời điểm thương binh, bệnh binh bị suy giảm khả năng lao động từ 61 % trở lên chết nếu thân nhân đã đủ 60 tuổi trở lên đối với nam, 55 tuổi trở lên đối với nữ thì được hưởng trợ cấp tuất”. Quy định như vậy là trái với Pháp lệnh và Nghị định sô 54/2006 quy định “khi đến tuổi 60 đối với nam, 55 tuổi đối với nữ thì được hưởng trợ cấp tuất”

- Công văn số 2269/NCC ngày 18/12/2009hướng dẫn các tỉnh không thực hiện chế độ kinh phí hỗ trợ kinh phí cho thân nhân liệt sỹ thăm viếng mộ liệt sỹ đã được an tán tại nguyên quán. Hướng dẫn này trái với quy định của Pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh. Vì thực tế nhiều thân nhân liệt sỹ đã đi lập nghiệp ở các tỉnh khác nhưng có mộ liệt sỹ ở quê quán.

2. Kiến nghị một số vấn đề cụ thể:

a. Đối với Chính phủ:

- Cần có kế hoạch và chỉ đạo các bộ, ngành liên quan lấy các mẫu AND và thành lập ngân hàng gen của những thân nhân chưa tìm được liệt sĩ, sau đó nếu hài cốt liệt sĩ được tìm thấy sẽ được thử gen có sẵn trong ngân hàng gen; bởi vì nếu không làm kịp thời, trong tương lai số thân nhân liệt sĩ sẽ không còn và sẽ mãi mãi không xác được danh tính của các liệt sỹ.

- Nghiên cứu để sửa đổi quy định về quy trình miễn, giảm học phí tại Nghị định số 49/201/NĐ-CP ngày 14/05/2010, vì quy định như hiện nay còn rườm rà, gây khó khăn cho đối tượng thụ hưởng. Đề nghị Chính phủ nghiên cứu để sửa đổi cho phù hợp và nên thực hiện ngay tại các cơ sở giáo dục, đào tạo.

- Hiện nay, có nhiều liệt sĩ không còn thân nhân thuộc diện được hưởng chế độ thanh toán kinh phí đi thăm viếng mộ liệt sĩ (gồm: cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con, anh, chị, em ruột của liệt sĩ). Do đó, một số người thân khác, như: cháu nội, cháu ngoại, chú, bác, cô, cậu, dì ruột của liệt sĩ không có điều kiện đi thăm viếng, nhất là liệt sĩ mai táng ở xa. Đề nghị Nhà nước cần có quy định mở rộng đối tượng được thanh toán kinh phí đi thăm viếng mộ liệt sĩ.

- Xem xét để có chế độ hỗ trợ tiền hương khói hàng năm cho thân nhân hiện đang thờ cúng liệt sỹ.

- Đối với gia đình có nhiều người bị dị dạng dị tật bị nhiễm chất độc hoá không có khả năng tự lực được trong sinh hoạt phải có người phục vụ hàng ngày. Đề nghị Nhà nước có quy định trợ cấp cho người nuôi dưỡng đối tượng này như trợ cấp người phục vụ thương binh, bệnh binh nặng.

- Xem xét, giải quyết chế độ trợ cấp hàng tháng cho người hoạt động cách mạng bị địch bắt, tù đày được hưởng trợ cấp một lần; người được tặng thưởng huy chương kháng chiến.

- Bổ sung đối tượng thanh niên xung phong thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ vào diện đối tượng người có công với cách mạng.

- Xem xét để công nhận liệt sỹ đối với thương binh (dưới 81%) chết trong khi điều trị vết thương tái phát tại cơ sở y tế, trên đường chuyển viện hoặc tại gia đình. Việc quy định như hiện nay chỉ công nhận liệt sỹ đối với thương binh chết trong khi điều trị vết thương tái phát được điều trị tại bệnh viện tuyến tỉnh là không hợp lý, nhất là đối với thương binh đang sinh sống tại hải đảo, biên giới, vùng sâu, vùng xa.

- Xem xét, giải quyết chế độ thưởng cho các đối tượng đã được nhận bằng khen của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng hoặc Chủ tịch UBND tỉnh vì đã có thành tích đóng góp cho cách mạng nhưng chưa đủ tiêu chuẩn tặng thưởng huân, huy chương.

- Bổ sung trang cấp cho thương binh có vết thương thấu phổi, vết thương nội tạng, vết thương khuyết sọ não.

- Nghệ An là một tỉnh nghèo, có số lượng đối tượng chính sách lớn, việc huy động các nguồn lực chăm sóc đời sống người có công có nhiều khó khăn. Vì vậy, kính đề nghị Chính phủ quan tâm ưu tiên các chương trình hỗ trợ về chính sách người có công cho tỉnh để tạo điều kiện tốt hơn cho việc thực hiện công tác này.

b. Đối với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội:

- Thống nhất với Đoàn TNCSHCM và bộ, ngành liên quan tiếp tục cho thực hiện chế độ người hưởng chính sách như thương binh đối với cựu thanh niên xung phong và cựu dân công hoả tuyến nhưng không còn lưu giữ được giấy tờ gốc.

- Ban hành văn bản hướng dẫn giải quyết chế độ đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học (có đủ điều kiện theo quy định) nhưng không hoàn thành nhiệm vụ, hoặc đào ngũ và những trường hợp không còn giấy tờ chứng minh đã hoạt động ở vùng quân đội Mỹ sử dụng chất độc hóa học hoặc có con bị dị dạng, dị tật.

- Bộ lao động, Thương binh và Xã hội hướng dẫn giải quyết chế độ đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học có con bị dị dạng, dị tật đã chết.

- Nghiên cứu để có quy định việc giám định lại thương tật cho thương binh đang có tỷ lệ thương tật thấp, vì đối tượng này tuổi càng cao sức khoẻ càng yếu dẫn đến vết thương tái phát ngày càng nhiều nhưng không được đi giám định lại vết thương để nâng hạng hoặc những trường hợp đã giám định ở chiến trường nhưng kết luận tỷ lệ thương tật dưới 21%.

- Cho triển khai tiếp nhận hồ sơ người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học có bệnh án điều trị bệnh theo danh mục tại Quyết định số 09/2008/QĐ- BYT điều trị sau thời điểm tháng 4/2009.

- Quy định chế độ điều dưỡng cho người có công với cách mạng có tỷ lệ dưới 81% là 5 năm/1 lần là quá dài, cần tạo điều kiện 2 năm/1 lần.

- Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khách quan Bằng tổ quốc ghi công của một số gia đình đã bị hư hỏng, có nhu cầu cấp đổi lại nhưng lại không đủ điều kiện do không nhớ số hiệu của bằng nên chưa được giải quyết hoặc đủ điều kiện cấp đổi nhưng triển khai chậm. Đề nghị Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội xem xét.

- Quy định những người tham gia hoạt động kháng chiến đã được tặng thưởng Huân, Huy chương đã được hưởng hoặc chưa được hưởng trợ cấp một lần mà đã chết từ ngày 1/10/2005 trở lại nay đều có mai táng phí, không nên quy định phải được hưởng trợ cấp khi chết mới có chế độ mai táng phí (cụ thể là công văn số 989/NCC, ngày 15/11/2010 của Cục người có công, quy định việc những gia đình được cấp Huy chương gia đình chết trước thời điểm làm hồ sơ không được cấp mai táng phí).

c. Đối với Bộ Y tế:

- Sớm ban hành danh mục dị dạng, dị tật đối với con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học nhằm tạo điều kiện cho địa phương trong việc triển khai thực hiện.

- Phối hợp chặt chẽ với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chỉ đạo địa phương, các ngành chức năng tăng cường giám sát việc giám định, xác nhận hồ sơ đảm bảo đúng đối tượng, không để sót đối tượng.

d. Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh:

- Tăng cường công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách về người có công nhằm đưa hệ thống văn bản QPPL đến tất cả các cán bộ, công chức làm công tác chính sách và người dân bằng nhiều hình thức phong phú, thiết thực, hiệu quả.

- Chỉ đạo các ngành chức năng, UBND huyện tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc triển khai thực hiện các chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; đồng thời kiên quyết xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm; quam tâm giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân.

- Đẩy mạnh công tác xã hội hóa và các hoạt động phong trào đền ơn đáp nghĩa để hỗ trợ các gia đình chính sách còn khó khăn, từng bước vượt qua nghèo khó, đạt tới mức sống trung bình trong xã hội, ưu tiên giải quyết chỗ ở, hỗ trợ vốn phát triển, kinh phí nâng cấp, tu bổ các nghĩa trang liệt sỹ … Đồng thời, khuyến khích, động viên, tạo điều kiện để người có công tích cực tham gia các hoạt động xã hội, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh góp phần ổn định và nâng cao đời sống gia đình.

- Chỉ đạo cơ quan chuyên môn kịp thời kiến nghị với Chính phủ, bộ, ngành Trung ương khi gặp khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện chế độ, chính sách ưu đãi cho người có công với cách mạng nhằm đảm bảo tính thống nhất trong thực hiện ở các địa phương và đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của đối tượng thụ hưởng.

- Kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác chính sách bảo đảm đủ phẩm chất, năng lực công tác, chuyên môn, nhằm tham mưu cho cấp ủy đảng, chính quyền thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Trên đây là báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng trên địa bàn tỉnh. Đoàn ĐBQH tỉnh Nghệ An trân trọng báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội và kiến nghị với Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương, UBND tỉnh giải quyết một số vấn đề cụ thể./.