Thay mặt lãnh đạo cơ quan, đồng chí Nguyễn Hữu Trường quán triệt mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung hội nghị góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Sau khi Thường trực, các ban HĐND tỉnh đã tổ chức lấy ý kiến góp ý vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, theo chức năng, nhiệm vụ, đặc thù công tác, văn phòng sẽ tập trung thảo luận Chương II của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

Đã có 15 lượt ý kiến góp ý trực tiếp, 14 đồng chí góp ý bằng văn bản, 10 tin bài đăng tải trên Trang Thông tin điện tử dbndnghean.vn vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Tất cả các ý kiến đều thể hiện có đầu tư công sức, trí tuệ với ý thức xây dựng để có một bản Hiến pháp mới phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng, của đất nước trong tình hình mới, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Đặc biệt, chương II là chương về "Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân" được cử tri và nhân dân quan tâm đặc biệt. Đối với các đại biểu dân cử và cơ quan dân cử, việc nghiên cứu sâu nội dung này trong bản Hiến pháp là một trong những nhu cầu thiết yếu phục vụ cho quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị theo quy định của luật pháp.

Trong quá trình phát triển của lịch sử, Nghệ An được coi là phên dậu của nước nhà, nhiều vị lãnh tụ cứu nước đã chọn Nghệ An làm đất đứng chân trong các cuộc kháng chiến chống thù trong giặc ngoài. Bởi lẽ, Nghệ An là tỉnh đất rộng, người đông, địa hình hiểm trở, đa dân tộc, đa tôn giáo…tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội cũng có những diễn biến phức tạp. Với truyền thống yêu nước và cách mạng, cử tri và nhân dân Nghệ An hết sức quan tâm và có trách nhiệm đối với việc sửa đổi Hiến pháp lần này, đặt nhiều tâm huyết, hy vọng vào một sự đổi mới toàn diện, sâu sắc cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…của đất nước trong đó có Nghệ An trong những năm tiếp theo khi Bản Hiến pháp 1992 sửa đổi được thông qua.

Hầu hết các ý kiến góp ý đều cho rằng việc sửa đổi Hiến pháp 1992 là hết sức cần thiết, nhất là trong trong bối cảnh hội nhập quốc tế, quá trình vận động và phát triển của đất nước. Nhiều ý kiến cho rằng so với Hiến pháp năm 1992, bản Dự thảo sửa đổi đã có sự sắp xếp bố cục hợp lý hơn, nhiều nội dung đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết của Đảng lần thứ XI, nhiều vấn đề cơ bản như quyền con người, quyền của công dân, quyền lực của nhân dân, công tác lập hiến, bảo hiến; công tác tư pháp và hành pháp, chế độ chính trị, tổ chức bộ máy nhà nước, chế định kiểm soát quyền lực… đã được đề cập đến một cách toàn diện và đầy đủ hơn.

Tuy nhiên, cũng nhiều ý kiến cho rằng nội dung và kỹ thuật lập hiến của văn bản Dự thảo sửa đổi vẫn chưa khắc phục được một số hạn chế của Hiến pháp 1992, điều, khoản ở một số chương còn mang tầm vi mô mà yêu cầu của Hiến pháp phải là tầm vĩ mô; có ý kiến cho rằng cần thừa kế và phát huy một số ý từ Hiến pháp năm 1946; Bố cục một số chương, điều, khoản chưa hợp lý, văn phong trình bày trong Dự thảo có lúc, có nơi chưa thật cô đọng, súc tích, còn nặng về văn phong Nghị quyết, khẩu hiệu chung chung…

Góp ý vào các Chương, Điều cụ thể, có rất nhiều ý kiến tham gia toàn bộ Dự thảo, tuy nhiên tập trung nhiều nhất vẫn là những ý kiến đóng góp vào những hạn chế trong nội dung Lời nói đầu (còn quá dài, chưa thực sự là lời hiệu triệu tuyên ngôn với quốc dân, đồng bào và thế giới); Chương I: Chế độ chính trị (về tên gọi của nước ta, về Điều 4 - Đảng Cộng sản Việt Nam, về vấn đề tại sao chỉ đưa chế định Công đoàn vào Dự thảo mà không đưa các tổ chức khác như Hội Nông dân, Hội Cựu Chiến binh...); Chương II – Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đây là phần nội dung cơ bản mà Văn phòng tập trung thảo luận, góp ý kiến vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Các ý kiến cho rằng một số Điều, khoản quy định chưa hợp lý và đề nghị cần làm rõ khái niệm về quyền con người, sắp xếp bố cục lại cho hợp lý theo hướng quy định quyền con người, quyền công dân, nghĩa vụ độc lập, không để lẫn lộn như Dự thảo…

Cụ thể:

Tại khoản 1, điều 4, chương I, cần chỉnh lại: " Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong, đại biểu trung thành quyền và lợi ích hợp pháp của giai cấp công nhân , trí thức, các tầng lớp nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội."

Tại khoản 1, điều 5, chương I: cần điều chỉnh:" Nhà nước .... tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc Việt Nam phát huy nội lực, hòa nhập, góp công sức, trí tuệ vào sự phát triển chung của đất nước.

Không nên dùng từ "dân tộc thiểu số", vì như vậy đã vô tình tạo khoảng cách và sự kỳ thị cho đồng bào các dân tộc ít người.

Tại khoản 2, điều 7, chương I: nên điều chỉnh theo cách viết: Việc bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân do Quốc hội và HĐND quyết định (khi đại biểu đó không được nhân dân tín nhiệm.).

Bỏ điều 16, chương II vì đã có trong khoản 2, điều 15 của chwong II rồi.

Tại khoản 3, điều 18, chương II: nên nhập khoản 3, điều 18, chương II vào với khoản 2, điều 19, chương II với nội dung:" Nhà nước CHXHCNVN bảo hộ, khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ mối quan hệ gắn bó và góp phần xây dựng quê hương, đất nước.

Không cần đưa ý "gắn bó với gia đình" vì đó là lẽ đương nhiên của mỗi người con khi xa gia đình, xa tổ quốc để lao động, học tập và sinh sống ở nước ngoài.

Điều 18 ((sửa đổi, bổ sung Điều 49):

Đề nghị bổ sung thêm mục 3 về khái niệm “mọi người”. Vì trong chương này có đề cập về quyền và nghĩa vụ của mọi người

Điều 19, chương II: đề nghị thêm: Nhà nước bảo hộ các quyền và lợi ích chính đáng của người Việt nam định cư ở nước ngoài phù hợp với pháp luật quốc tế và pháp luật nước sở tại.

Điều 20 nên bỏ vì nội dung khoản 1 của điều này không chính xác, rất nhiều quyền không nhất thiết phải gắn liền với nghĩa vụ và ngược lại có những nghĩa vụ không gắn trực tiếp với quyền nào.

Khoản 2 và khoản 3 điều này đề cập những vấn đề hiển nhiên, không nhất thiết phải quy định lại nữa. Khoản 3 của điều này đã đwocj hàm chứa trong nội dung khoản 2, điều 15 của dự thảo.

Điều 21, chương II: cần bổ sung:" Tất cả mọi người đều có quyền được sống, quyền tự do, bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc."

Đề nghị làm rõ thêm về quyền được sống của con người. Có thể đưa quyền được sống, được mưu cầu hạnh phúc…trong tuyên ngôn độc lập năm 1945 vào điều này

Điều 22 đề nghị thêm: không ai bị bắt, nếu khôgn có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân,trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.

Tại khoản 1, khoản 2, điều 23, chương II; 2 khoản này có thể nhập làm một để tránh trùng lặp và dài dòng. Cụ thể nên chỉnh lại:" Pháp luật bảo hộ quyền con người. Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm con người bắng bất kỳ hình thức, hành vi bạo lực, tra tấn, truy bức, nhục hình ...

Tại khoản 1, điều 23, chương II: nên chỉnh sửa:"Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.

Nghiêm cấm mọi hànhvi thu thập, lưu trữ, sử dụng phổ biến thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân , gia đình của người khác nếu không được người đó đồng ý."

Điều 24: đề nghị bỏ cụm từ "theo quy định của pháp luật" vì quá rộng, dễ lạm dụng để vi phạm các quyền trong điều này.

Đề nghị thêm vào: người nước ngaòi và người không quốc tịch có mặt hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam có quyền tự do đi lại và cư trú, tự do xuất cảnh và nhập cảnh Việt Nam trong phạm vi luật định.

Điều 25: nên bỏ cụm từ "nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo" vì dã có quy định chung tại điều 15 của chương này.

Thêm cụm từ: và được pháp luật bảo hộ bình đẳng.

Điều 26: nên bỏ từ "Biểu tình", vì đối với Việt Nam, đặt vấn đề biểu tình lúc này chưa có lợi về mặt chính trị.

Điều 27: đề nghị dùng các đại từ "phụ nữ", "nam giới" thay cho các cụm từ "công dân nam", "công dân nữ", vì không thể nói bình đẳng nam nữ chỉ áp dụng cho công dân.

Khoản 1 của điều này thêm từ "cơ hội và nghĩa vụ" để hiểu rõ hơn bản chất của bình đẳng giới.

Điều 28: bổ sung các cụm từ "đang ở trong nước hay ở nước ngoài".

Điều 30 nên gộp vào điều 28 (quy định về quyền bầu cử) vì tính chất và quy chế bầu cử và trưng cầu ý kiến nhân dân cơ bản giống nhau.

Khoản 2, điều 37, chương II: cần cụ thể hơn:"Việc khám xét chỗ ở hợp pháp của cá nhân thực hiện theo quy định của luật pháp."

Không ai được tự ý vào chổ hợp pháp của người khác nếu không được người đó đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Vì trong thực tế có những trường hợp cưỡng chế do vi phạm pháp luật, các lực lượng cưỡng chế không cần phải được sự cho phép của chủ nhà mà chỉ tuân theo quy định của pháp luật.

Khoản 2, điều 39, chương II: nên chặt chẽ hơn:" Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người mẹ và trẻ em".

Đề nghị cần nghiên cứu để bổ sung quy định về chuyển đổi giới tính, kết hôn đồng giới.

Khoản 1, điều 40, chương II: có thể đảo các vế của câu:" Nhà nước, xã hội, nhà trường, gia đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và bảo vệ quyền trẻ em."

Điều 50: sửa lại là: Mọi người có nghĩa vị nộp thuế theo quy định của pháp luật.

Điều 52: Thêm ... mà bị bức hại "nếu xin cư trú" thì được Nhà nước CHXHCN Việt Nam xem xét cho cư trú.

Điều 115, chương IX: sửa lại là: Việc thành lập HĐND ở các cấp hành chính do luật định; HĐND tỉnh, huyện, xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.

“Việc thành lập HĐND và UBND ở các đơn vị hành chính lãnh thổ do luật định phù hợp với đặc điểm của từng đơn vị lãnh thổ và phân cấp quản lý”

Quy định như vậy là còn chung chung và không ổn định. Hiến pháp cần xác định và quy định rõ chính quyền các cấp để làm căn cứ cho luật định và cơ sở cho các quy định tại các điều khác trong chương này.

Hiện nay đang thí điểm mô hình không có HĐND cấp huyện, phường, cần tổng kết cụ thể để đưa vào quy định hiến pháp.

Chính quyền địa phương bao gồm HĐND và UBND, nếu bỏ HĐND ở cấp huyện, phường thì các địa phương đó không còn chính quyền mà chỉ còn UBND, như vậy tính đại diện quyền lực của nhân dân tại địa phương đó sẽ bị ảnh hưởng. Đề nghị xem xét kỹ vấn đề này.

Điều 116, chương IX: nên bổ sung vào quyền lực HĐND gồm những quyền:

- Bầu ra UBND, bỏ hiếu tín nhiệm, lấy phiếu tín nhiệm những người do HĐND bầu ra;

- Quyết định những vấn đề phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và những vấn đề quan trọng khác của địa phương.

- Quyết định những vấn đề giám sát của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội tại địa phương do pháp luật quy định.

Mục 2: “UBND là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Chủ tịch UBND….trước HĐND và cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên”

Như vậy, Hiến pháp không quy định UBND do HĐND bầu (có lẽ vì đang cân nhắc bỏ HĐND cấp huyện, phường).

Việc quy định “Chủ tịch UBND và các thành viên UBND chịu trách nhiệm….trước HĐND và cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên” dễ gây nên hiểu rằng Chủ tịch UBND và các thành viên UBND chỉ chịu trách nhiệm trước HĐND cấp trên còn HĐND cấp mình (nếu có) thì không cần chịu trách nhiệm. Đề nghị cần quy định rõ hơn vấn đề này

Điều 118 (sửa đổi, bổ sung điều 122) dự thảo: "Đại biểu HĐND có quyền chất vấn Chủ tịch HĐND, Chủ tịch và các thành viên khác của UBND…người bị chất vấn phải trả lời trước HĐND hoặc trả lời bằng văn bản”

Quy định như vậy là còn chung chung, chưa rõ, dễ tạo sự hiểu nhầm rằng đại biểu HĐND cấp nào cũng có thể chất vấn Chủ tịch HĐND, Chủ tịch và các thành viên khác của UBND…, kể cả không phải ở địa phương mình.

Vì vậy cần quy định rõ: Đại biểu HĐND cấp nào thì có quyền chất vấn Chủ tịch HĐND, Chủ tịch và các thành viên khác của UBND…thuộc UBND cùng cấp.

Về việc trả lời chất vấn cần quy định rõ: người bị chất vấn phải trả lời trước HĐND hoặc trả lời bằng văn bản trong thời hạn do luật định.

Trên đây là Báo cáo tổng hợp góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cua văn phong Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh Nghệ An./.