bao-ve-suc-khoe-cho-nguoi-nong-dan.jpg
Nông nghiệp sinh thái thúc đẩy cả ba khía cạnh của phát triển bền vững: xã hội, kinh tế và môi trường (Ảnh: Internet)

Thực trạng phát triển nông nghiệp sinh thái

Trên thế giới, nông nghiệp sinh thái là hướng đi đang nhận được sự quan tâm chú trọng trên toàn cầu và là hướng đi cần thiết để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững. Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển bền vững nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết phải hành động và thúc đẩy các chính sách để đạt được các mục tiêu xoá đói giảm nghèo, đồng thời đảm bảo tăng trưởng bao trùm và quản lý bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Với cách tiếp cận tổng thể, nông nghiệp sinh thái cân bằng mối quan hệ giữa con người và hành tinh, thúc đẩy cả ba khía cạnh của phát triển bền vững: xã hội, kinh tế và môi trường, đồng thời tăng cường sinh kế cho nông dân sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ, người dân tộc thiểu số, phụ nữ và thanh niên. Mặc dù không phải là một khái niệm mới, nông nghiệp sinh thái hiện đang thu hút sự quan tâm trên toàn thế giới với vai trò là giải pháp hiệu quả cho biến đổi khí hậu và các thách thức liên quan đối với các hệ thống lương thực, tổng kết trong thực tiễn sản xuất nông nghiệp. Năm 2014, FAO đã tổ chức Hội nghị “nông nghiệp sinh thái cho an ninh lương thực và dinh dưỡng” và liên tục tổ chức các đối thoại cấp vùng để đáp ứng nhu cầu chia sẻ và xây dựng nông nghiệp sinh thái ở Mỹ La-tinh, Ca-ri-bê, châu Phi cận Sahara, châu Á và Thái Bình Dương, Trung Quốc, châu Âu và Trung Á... Đến năm 2018, Hội nghị lần thứ hai về nông nghiệp sinh thái với chủ đề “Nhân rộng mô hình nông nghiệp sinh thái để đạt được các mục tiêu về phát triển bền vững”. Sau đó “Sáng kiến nhân rộng nông nghiệp sinh thái” đã được xây dựng với sự cộng tác của các đối tác Liên hiệp quốc.

Ở Việt Nam, đã có một số hệ thống nông nghiệp theo hướng nông nghiệp sinh thái được triển khai, mang lại hiệu quả và đã tạo tiền đề cho phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp sinh thái: Như đã đề cập, nông nghiệp sinh thái không phải là một khái niệm, cách tiếp cận mới. Ở Việt Nam, một số mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng sinh thái đã được triển khai từ lâu nay. Các mô hình này đều hướng đến việc tối ưu hóa khai thác và sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả, giảm thiểu sự thất thoát, lãng phí và tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng cao và giảm thiểu tối đa tác động đến môi trường sinh thái, bảo vệ hệ sinh thái và sức khỏe con người. Một số mô hình điển hình đã được triển khai trong nông nghiệp trong những năm qua:

- Hệ thống vườn – ao – chuồng (VAC): Mô hình VAC đã được áp dụng phổ biến ở Việt Nam từ những năm 1980. VAC là hệ thống khép kín mà các thành phần trong hệ thống này có liên hệ mật thiết với nhau, sử dụng chất thải của thành phần này làm nguyên liệu đầu vào cho thành phần khác. Hệ thống VAC là một hệ thống sinh thái hoàn chỉnh, thống nhất các khâu, các thành phần, chi phí đầu tư thấp và phù hợp với hầu hết các vùng ngoài thành, nông thôn Việt Nam. Đây có thể coi là mô hình nông nghiệp sinh thái ở dạng thức đơn giản nhất và được áp dụng rộng rãi ở nông thôn. Hiện nay, nhiều mô hình VAC đã tạo được mối liên kết hiệu quả giữa nông dân, doanh nghiệp và các nhà khoa học. Sản phẩm của các mô hình này luôn được người tiêu dùng trong nước và quốc tế đánh giá cao và có thị trường rộng mở. Từ các mô hình nhỏ lẻ ở quy mô nông hộ với mục tiêu ban đầu là góp phần đảm bảo an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo, mô hình VAC ngày nay ở nước ta đã phát triển thành công tại nhiều trang trại và các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn.

- Hệ thống lúa tôm, lúa cá: Mô hình sản xuất kết hợp lúa – tôm, lúa – cá là hướng đi mới trong phát triển nông nghiệp hữu cơ trong những năm gần đây. Mô hình này được bắt đầu tư những năm 2000 tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Trong mô hình này, phụ phẩm từ nuôi tôm, cá sẽ làm phân bón bổ sung dinh dưỡng cho cây lúa; ngược lại, khi gặt lúa xong, phụ phẩm từ sản xuất lúa là nguồn thức ăn cho tôm, cá. Với mô hình luân canh này, cây trồng, vật nuôi không phải dùng thuốc bảo vệ thực vật, kháng sinh, tạo ra sản phẩm sạch và bảo vệ môi trường, tạo ra sản phẩm an toàn, nhất là giúp nông dân nâng cao thu nhập. Cho đến nay, mô hình này đang được cải biến thành mô hình “lúa thơm – tôm sạch” và “lúa thơm – cá sạch”. Đây chính là sản phẩm của quá trình cùng đổi mới, sáng tạo dựa trên tri thức và điều kiện tự nhiên vùng miền. Mô hình này được đánh giá là mang lại những hiệu quả như phát triển nông nghiệp bền vững, giảm ô nhiễm môi trường, duy trì môi trường sinh thái, tạo ra sản phẩm sạch và cung cấp cho thị trường. Đặc biệt, mô hình này là hướng đi cho hộ gia đình ở những vùng trũng, vùng lũ chuyển dịch sản xuất, nâng cao thu nhập, giảm thiểu những tác động tiêu cực gây ra bởi biến đổi khí hậu.

- Hệ thống nông lâm kết hợp: Mô hình nông lâm kết hợp là một hệ thống quản lý sử dụng đất, trong đó cây hàng năm, cây bụi, cây thân thảo được trồng xung quanh hoặc xen giữa các cây trồng lâu năm, cũng có thể kết hợp đồng cỏ hoặc chăn nuôi. Sự kết hợp này tạo ra sự đa dạng, mang lại năng suất, lợi nhuận, sinh thái và bền vững các hệ thống sử dụng đất. Tính đa dạng sinh học trong các hệ thống nông lâm kết hợp thường cao hơn trong hệ thống nông nghiệp thông thường. Do đó, nhiều trang trại, hộ nông dân đã lựa chọn chuyển đổi sang mô hình nông lâm kết hợp nhằm đa dạng hóa sản phẩm, cải thiện sinh kế cũng như thích ứng với các tác động của hiện tượng biến đổi khí hậu. Ở Việt Nam, có nhiều hình thức canh tác nông lâm kết hợp được ứng dụng trong thực tế, trong đó có thể kể tới mô hình trồng các loài cây họ đậu theo đường đồng mức trên diện tích canh tác cây hàng năm nhằm giảm xói mòn và làm phân xanh tại chỗ; mô hình trồng cây nông nghiệp kết hợp cây lâm nghiệp; mô hình trồng trọt dành một phần đất cho chăn nuôi; mô hình trồng rừng quy mô nhỏ kết hợp sản xuất lương thực, cây ăn quả và cây thực phẩm; mô hình cây ăn quả kết hợp cây công nghiệp dài ngày.

- Hệ thống nông nghiệp cảnh quan bền vững: là phương pháp tiếp cận tổng hợp cho ra đời các giải pháp quan trọng để giải quyết suy thoái môi trường, thích nghi với biến đổi khí hậu và tăng cường đa dạng sinh học, đồng thời cải thiện an ninh về lĩnh vực lương thực và dinh dưỡng. Đến nay, đã có nhiều mô hình nông nghiệp cảnh quan bền vững như mô hình cà phê cảnh quan ở Lâm Đồng, Đăk Lăk; mô hình quản lý và bảo tồn hệ sinh thái ngập nước và phát triển sinh thái bền vững ở Vườn Quốc gia Tràm Chim, Đồng Tháp.

to-hop-chan-nuoi-an-toan-sinh-hoc-4f-tai-thua-tien-hue.jpg
Tổ hợp chăn nuôi an toàn sinh học 4F tại Thừa Thiên Huế

- Hệ thống chăn nuôi an toàn sinh học 4F (trồng trọt – thực phẩm – chăn nuôi – phân bón): Mô hình 4F được nghiên cứu và phát triển bởi Tập đoàn Quế Lâm nhằm xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp thông qua triển khai các khu tổ hợp chế biến nông sản hữu cơ, kiểm soát sản xuất thịt lợn an toàn bằng hệ thống nuôi khép kín. Mô hình là chu trình sản xuất khép kín. Chất thải trong trang trại được thu gom và xử lý để sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh phục vụ trồng trọt, tạo thành quy trình sản xuất nông nghiệp khép kín từ chăn nuôi đến trồng trọt, từ cây đến đất. Mô hình góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, phòng ngừa dịch bệnh, góp phần bảo vệ môi trường sinh tháim giảm phải thải khí nhà kính.

- Hệ thống nông nghiệp kết hợp du lịch sinh thái: Đây là hệ thống sử dụng nguyên lý cộng hưởng của nông nghiệp sinh thái. Du lịch nông nghiệp sinh thái là mô hình đang ngày càng được đầu tư và chú trọng ở Việt Nam trong những năm gần đây, tạo nhiều sức hút đối với du khách trong và ngoài nước cũng như gia tăng thu nhập cho người sản xuất nông nghiệp. Đã có nhiều mô hình nông nghiệp du lịch sinh thái triển khai thành công ở Việt Nam như du lịch nông nghiệp ở Hội An, du lịch nông nghiệp tại Ba Vì, tại Tam Đường – Lai Châu, Sapa – Lào Cai…

- Mô hình sản xuất hữu cơ: Thời gian gần đây, các mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ cũng được quan tâm. Nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ trong trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản được phát triển. Đến nay diện tích sản xuất theo mô hình nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam đạt trên 170 ngàn héc ta.

Mặc dù có sự quan tâm trong những năm gần đây nhưng việc phát triển nông nghiệp sinh thái còn manh mún, chưa có sự liên kết hình thành các chuỗi giá trị. Những sản phẩm nông nghiệp sinh thái chưa được chứng nhận, dán nhãn, chưa có doanh nghiệp vào bao tiêu. Các tổ nhóm nông dân, HTX nông nghiệp sinh thái cũng còn thiếu.

Nhiều hoạt động sản xuất hướng tới nông nghiệp sinh thái ở Việt Nam nhưng để đảm bảo đầy đủ các nguyên tắc của nông nghiệp sinh thái thì còn có khoảng cách xa. Gần đây ở một số tỉnh như Lâm Đồng, Đắc Lắc đang phát triển một số hệ thống nông nghiệp cảnh quan cho cà phê. Mô hình này cũng kết hợp nhiều nguyên tắc về hiệu quả, đa dạng, bản địa, quản trị xã hội và cũng có tính nhân văn cao. Đây là hướng đi rất quan trọng trong phát triển nông nghiệp sinh thái ở Việt Nam. Đặc biệt với các mô hình cảnh quan bền vững thì vai trò doanh nghiệp là rất quan trọng và họ tham gia từ đầu, sẵn sàng bao tiêu sản phẩm cho hộ nông dân.

Khó khăn, hạn chế phát triển nông nghiệp sinh thái ở Việt Nam

Cho đến nay, nông nghiệp sinh thái là hướng đi tất yếu hướng tới phát triển nông nghiệp bền vững, đã có nhiều mô hình nông nghiệp sinh thái được triển khai và đạt được thành công nhất định. Tuy nhiên, để chuyển đổi hệ thống lương thực, thực phẩm và nông nghiệp theo cách tiếp cận nông nghiệp sinh thái, nhiều khó khăn hiện hữu:

- Thứ nhất, hiện nay tư duy sản xuất theo nông nghiệp sinh thái còn chưa phổ biến. Các hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay chủ yếu tập trung vào việc gia tăng sản lượng mà chưa chú trọng nhiều đến các yếu tố về an toàn thực phẩm, tính tự bền vững của hệ thống sản xuất, tính đa dạng sinh học, sức khỏe đất, sức khỏe cây trồng và nhiều khi còn chưa tập trung vào nâng cao chất lượng của sản phẩm. Cùng với đó sản xuất chưa bắt kịp những thay đổi nhanh chóng về thị hiếu tiêu dùng ở thị trường trong nước cũng như quốc tế. Thói quen canh tác thâm dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học của người sản xuất khiến cho nguy cơ gây suy thoái môi trường gia tăng. Việc sản xuất theo các tiêu chuẩn thực hành sản xuất tốt mặc dù đã được đẩy mạnh nhưng tỷ lệ áp dụng còn hạn chế do giá bán của các sản phẩm dán nhãn VietGAP, hữu cơ chưa tương xứng với đầu tư sản xuất theo các tiêu chuẩn này. Hiện nay diện tích sản xuất hữu cơ của Việt Nam mới chỉ đạt khoảng 170 ngàn héc-ta, diện tích trồng trọt đạt chứng nhận tiêu chuẩn bền vững như VietGAP, GlobalGAP và chứng nhận tương đương chỉ đạt 10%.

nong-nghiep-sinh-thai.jpg
Nông nghiệp sinh thái là hướng đi để phát triển nông nghiệp bền vững. (Ảnh: Internet)

- Thứ hai, chưa có nhiều doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sinh thái. Nông nghiệp là ngành sản xuất có lợi nhuận không cao và thường phải đối diện với nhiều loại rủi ro như thiên tai, ngoài ra thị trường nông sản cũng có tính rủi ro và bất ổn cao. Đây là một trong những yếu tố cản trở doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp và tham gia liên kết chuỗi giá trị nông sản. Bên cạnh đó, doanh nghiệp trong nông nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, năng lực tài chính thấp, trên 90% là doanh nghiệp nhỏ, thậm chí là siêu nhỏ, hiệu quả hoạt động chưa cao nên khó có tiềm lực để nhân rộng các mô hình nông nghiệp sinh thái.

- Thứ ba, nhận thức của người tiêu dùng về sản phẩm an toàn, sản phẩm nông nghiệp sinh thái được nâng cao nhưng chưa sẵn lòng chi trả một mức giá tương xứng cho sản phẩm. Mặc dù nhu cầu về chế độ ăn uống có lợi cho sức khỏe, nhu cầu về đa dạng hóa chế độ ăn uống ngày càng gia tăng, tuy nhiên, người tiêu dùng chưa sẵn lòng chi trả một mức giá tương xứng, nhận thức về mối liên kết giữa sản xuất nông nghiệp với các vấn đề về môi trường và xã hội, bao gồm biến đổi khí hậu, dinh dưỡng và sức khỏe chưa đầy đủ.

- Thứ tư, tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị ở Việt Nam hiện nay còn tương đối lỏng lẻo, các mô hình chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp sinh thái hầu hết chỉ dừng lại ở các mô hình nhưng chưa được nhân rộng. Nguyên nhân chính là do liên kết hợp tác còn chưa mạnh, thiếu gắn kết giữa các tác nhân trong chuỗi. Việc chia sẻ lợi ích giữa doanh nghiệp và các tác nhân khác trong chuỗi giá trị còn chưa đạt được sự đồng thuận nhất định khiến tình trạng tham gia liên kết còn ít, tình trạng bẻ kèo, tranh chấp giữa doanh nghiệp và người sản xuất còn diễn ra phổ biến.

- Thứ năm, quá trình chuyển đổi nông nghiệp sinh thái đòi hỏi sự vào cuộc giứa các bộ ngành, lĩnh vực và các bên liên quan. Chính sách tạo thuận lợi cho phát triển nông nghiệp sinh thái cần được lồng ghép ở nhiều cấp độ (địa phương, quốc gia và quốc tế) và lĩnh vực (từ nông nghiệp, thủy sản và lâm nghiệp đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường). Động lực từ các chính sách thúc đẩy các hệ thống sản xuất nông nghiệp hiện nay chưa đủ lớn để tạo ra một sân chơi bình đẳng cho nông nghiệp sinh thái và các phương pháp tiếp cận nông nghiệp bền vững khác có tính đến yếu tố bên ngoài của hệ thống thực phẩm.

Giải pháp phát triển nông nghiệp sinh thái và tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị

Truyền thông thay đổi nhận thức của người sản xuất và xã hội về phát triển nông nghiệp bền vững, nông nghiêp sinh thái

Hiện nay, nông nghiệp sinh thái là phương thức tiếp cận được nhiều quốc gia và các tổ chức trên thế giới khuyến khích. Với các nguyên tắc hạn chế khai thác cạn kiệt tài nguyên, cần phải quan tâm đến sức khỏe cây trồng, sức khỏe đất, đảm bảo sự đa dạng sinh học, tăng cường khả năng chống chịu, tiết kiệm tài nguyên (tái chế), nâng cao hiệu quả kết hợp các giá trị xã hội và nhân văn và quan trị có trách nhiệm thì nông nghiêp sinh thái là cách tiếp cận tổng hợp và mang lại nhiều lợi ích. Tuy nhiên để thực hiện các nguyên tắc này không phải là dễ vì đây là khái niệm mới và cách tiếp cận mới. mặc dù Việt Nam đã có một số mô hình theo hướng nông nghiệp sinh thái. Để phát triển mạnh hơn nông nghiệp sinh thái thì đầu tiên cần có những chiến lược truyền thông để thay đổi nhận thức cho những nhà quản lý, người nông dân, những HTX và các doanh nghiệp. Cùng với đó, cần thay đổi nhận thức của xã hội để khuyến khích sản xuất theo hướng sinh thái. Truyền thông để khuyến khích người tiêu dùng sẵn sàng đón nhận những sản phẩm sản xuất theo các nguyên tắc nông nghiệp sinh thái, khuyến khích và có cơ chế chính sách để các doanh nghiệp đưa sản phẩm nông nghiệp sinh thái ra thị trường.

Thay đổi tư duy là cả một quá trình. Trong đó xây dựng tài liệu, phổ biến kiến thức, tổ chức đào tạo, tập huấn, truyền thông là rất cần thiết. Trong điều kiện khi tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTAs) thế hệ mới thì ngoài việc đáp ứng các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, an toàn lao động thì các tiêu chuẩn xã hội khác cũng rất quan trọng. Để đảm bảo các nguyên tắc nông nghiệp sinh thái thì trước hết cần phải đảm bảo xây dựng nền nông nghiệp có trách nhiệm ở đó người sản xuất có trách nhiệm sản xuất ra những sản phẩm an toàn, chất lượng, không làm hại tới môi trường. Cùng với sản xuất, chế biến có trách nhiệm thì đối với chuỗi, vai trò người tiêu dùng cũng rất quan trọng, giúp định hướng, khuyến khích phát triển sản xuất và chế biến. Tiêu dùng có trách nhiệm là phải thúc đẩy việc tiêu thụ những sản phẩm an toàn, có tiêu chuẩn, có chứng nhận, có xuất xứ rõ ràng. Đồng thời người tiêu dùng sẵn sàng trả một giá trị tương xứng cho những sản phẩm này.

canh-tac-nong-nghiep-cong-nghe-cao.jpg
Canh tác nông nghiệp công nghệ cao (Ảnh: Internet)

Bên cạnh với đó, cần tăng cường phổ biến rộng rãi các kiến thức và mô hình nông nghiệp sinh thái thành công dưới các hình thức khác nhau để nâng cao nhận thức cho người sản xuất, góp phần nhân rộng mô hình nông nghiệp sinh thái.

Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp, tăng cường chia sẻ tri thức nhằm hướng tới nền nông nghiệp bền vững, minh bạch, trách nhiệm

Khuyến khích nghiên cứu, phát triển, đổi mới sáng tạo và áp dụng các giống cải tiến thích ứng tốt hơn với tác động của biến đổi khí hậu và thiên tai, đồng thời, chú trọng công tác thu thập, bảo tồn và phát triển nguồn gen cây trồng, vật nuôi quý bản địa làm vật liệu chọn tạo giống cả bằng hình thức tại nông hộ và ngân hàng gen; hỗ trợ người nông dân gìn giữ các giống cây, con quý thông qua hỗ trợ phát triển các giống địa phương thành sản phẩm đặc sản, nâng cao giá trị kinh tế sản xuất, giúp người dân gắn bó với sản xuất nông nghiệp. Có chính sách và chương trình hỗ trợ kỹ thuật để khuyến khích áp dụng các hệ thống sản xuất sinh thái, bền vững hơn (ví dụ: thực hành nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp chính xác, nông lâm kết hợp, nông nghiệp cảnh quan,...) và trồng rừng đặc biệt trên các vùng đất bạc màu, ven biển. Hệ thống sản xuất tại những vùng có điều kiện khắc nghiệt cần được đầu tư kết hợp với các ngành nghề đi kèm (ví dụ: ngành bảo quản, chế biến, thu mua và phân phối sản phẩm...). Phát triển và thí điểm các biện pháp khuyến khích để mở rộng quy mô các mô hình thông minh với khí hậu nhằm giảm thiểu phát thải nhà kính từ nông nghiệp và góp phần tăng lưu trữ các-bon. Tuyên truyền quảng bá những kỹ thuật mới kết với với các kiến thức bản địa để nâng cao hiệu quả sản xuất nhưng không làm mất đi những kinh nghiệm, kỹ thuật địa phương.

Đầu tư thực hiện các nghiên cứu các mô hình nông nghiệp đa dạng về nông nghiệp sinh thái, các kỹ thuật áp dụng phát triển nông nghiêp sinh thái theo các vùng, ngành khác nhau và chia sẻ kết quả, công nghệ áp dụng cho người sản xuất để nhân rộng các mô hình.

Xây dựng hoàn thiện các tiêu chí đánh giá nông nghiệp sinh thái và các phương thức chứng nhận sản phẩm nông nghiệp sinh thái

Việc xây dựng chỉ tiêu này trước hết là tập trung ở cấp hộ sau đó có thể phát triển ra cấp một vùng, xã hay huyện. Hiện nay, các tiêu chí đánh giá nông nghiệp sinh thái đang cũng bắt đầu được các tổ chức nghiên cứu và ứng dụng vào thực tiễn. Việt Nam cũng cần phải có những tiêu chí về nông nghiệp sinh thái để đánh giá hệ thống sản xuất hiện tại từ đó định hướng phát triển nông nghiệp sinh thái hợp lý với điều kiện của Việt Nam, hay với từng vùng và sản phẩm.

nong-nghiep-sinh-thai-1.%5B1%5D.jpg
Nông nghiệp sinh thái hiện đang thu hút sự quan tâm trên toàn thế giới với vai trò là giải pháp hiệu quả cho biến đổi khí hậu và các thách thức liên quan đối với các hệ thống lương thực, tổng kết trong thực tiễn sản xuất nông nghiệp (Ảnh: Internet)

Xây dựng chính sách hỗ trợ người sản xuất chuyển đổi từ nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp sinh thái

Để phát triển nông nghiệp theo các nguyên tắc nông nghiệp sinh thái có thể sẽ làm giảm năng suất và hiệu quả trước mắt. Vì thế cần phải có những chính sách hỗ trợ người dân trong việc chuyển đổi hệ thống sản xuất. Việc xây dựng hệ sinh thái dịch vụ cho nông nghiệp sinh thái với sự tham gia của khuyến nông cộng đồng là cấp thiết đối với quá trình chuyển đổi sang nông nghiệp sinh thái. Bên cạnh các chính sách đào tạo, tập huấn kiến thức cho bà con thì cũng cần có chính sách hỗ trợ về giống, về kết nối chuỗi, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp sinh thái hay có chính sách ưu đãi tín dụng hỗ trợ cho nông nghiệp sinh thái.

Phát triển liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp sinh thái

Hoàn thiện các chính sách thúc đẩy liên kết trong sản xuất nông nghiệp. Sửa đổi Nghị định 98/2018/NĐ-CP về thúc đẩy liên kết trong sản xuất nông nghiệp, luật hợp tác xã. Đặc biệt cần có những chính sách hỗ trợ cho các hộ liên kết sản xuất theo mô hình nông nghiệp sinh thái. Hỗ trợ các doanh nghiệp bao tiêu đầu ra cho doanh nghiệp thông qua chính sách ưu đãi tín dụng, thuế, hỗ trợ đào tạo, xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm. Nghiên cứu xây dựng phát triển các chương trình thúc đẩy tiêu thụ nông sản an toàn, trách nhiệm, minh bạch, các chương trình hỗ trợ quảng bá cho sản phẩm nông nghiệp sinh thái, dần dần tiến tới thực hiện dán nhãn sinh thái và xây dựng thương hiệu sản phẩm nông nghiệp sinh thái. Để thu hút sự ủng hộ của người tiêu dùng đối với sản phẩm nông nghiệp sinh thái, bên cạnh các tiêu chí đánh giá thì việc nghiên cứu xây dựng các phương thức chứng nhận phù hợp cho nông nghiệp sinh thái là rất cần thiết. Ứng dụng chuyển đổi số cũng góp phần tăng tính minh bạch cho chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp sinh thái.

Phát triển nông nghiệp bền vững theo hướng sinh thái cần phải được xác định là định hướng nhưng cũng là nhiệm vụ của các địa phương

Các mục tiêu chuyển đổi theo hướng nông nghiệp sinh thái cần được đưa vào chiến lược phát triển ngành nông nghiệp, trên cơ sở đó xây dựng lộ trình và kế hoạch hành động phù hợp với điều kiện của từng địa phương. Gắn kết kế hoạch hành động các địa phương với kế hoạch chuyển đổi hệ thống lương thực thực phẩm quốc gia. Tiến tới xây dựng Chương trình nông nghiệp sinh thái quốc gia. Cần thiết phái rà soát lại hệ thống chính sách Nông nghiệp hiện thời của cả trung ương và địa phương, có các điều chỉnh phù hợp với mục tiêu nông nghiệp sinh thái.

Lê Minh Hoan

Bộ trưởng Bộ NN và PT nông thôn