Chính phủ đã ban hành Nghị định số 52/2018/NĐ-CP ngày 12/4/2018 về phát triển ngành nghề nông thôn. Theo đó, các hoạt động ngành nghề nông thôn bao gồm 7 nhóm: chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản; sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ; xử lý, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn; sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ; sản xuất và kinh doanh sinh vật cảnh; sản xuất muối và các dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống dân cư nông thôn. Cùng với các hoạt động ngành nghề nông thôn, Nghị định của Chính phủ đề cập đến đối tượng làng nghề, làng nghề truyền thống và các chính sách hỗ trợ phát triển.
Căn cứ Nghị định số 52/2018/NĐ-CP, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐND ngày 12/7/2019 về một số chính sách hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh. Chính sách hỗ trợ gồm 3 nội dung: hỗ trợ một lần 50% tổng chi phí nhưng không quá 200 triệu đồng/cơ sở để di dời cơ sở ngành nghề nông thôn ra khỏi khu dân cư đến địa điểm quy hoạch; hỗ trợ 50 triệu đồng/nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống tại quyết định công nhận của UBND tỉnh; hỗ trợ 2 tỷ đồng/làng nghề vùng đồng bằng và 3 tỷ đồng/làng nghề vùng miền núi để đầu tư cải tạo, nâng cấp và hoàn thiện cơ sở hạ tầng làng nghề (đường giao thông, điện, nước sạch; hệ thống tiêu, thoát nước; xây dựng trung tâm, điểm bán hàng và giới thiệu sản phẩm làng nghề). Đồng thời với đó, triển khai Quyết định số 801/QĐ-TTg ngày 07/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ về chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030, UBND tỉnh đã ban hành Đề án bảo tồn và phát triển làng nghề trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2023 - 2030.
Thực hiện chính sách phát triển ngành nghề nông thôn, giai đoạn 2019 - 2025 đã công nhận mới 33 làng nghề với tổng kinh phí hỗ trợ là 1.650 triệu đồng. Nhờ đó, đến nay trên địa bàn tỉnh có 190 làng nghề được UBND tỉnh công nhận (trong đó có 10 làng nghề truyền thống và 180 làng nghề), có 25 sản phẩm của các làng nghề đã được công nhận sản phẩm OCOP 3 sao trở lên và có 37 hợp tác xã được thành lập trong các làng nghề, có 29 làng nghề gắn với du lịch. Toàn tỉnh có 3 nghệ nhân, 22 thợ giỏi được công nhận. Theo số liệu năm 2024, tổng doanh thu/năm của làng nghề ước đạt 2.000 tỷ đồng; giải quyết việc làm cho khoảng 32.760 lao động (trong đó lao động thường xuyên là 23.059 người), thu nhập bình quân đạt 4,5 - 6,0 triệu đồng/người/tháng.
Làng nghề, làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh rất phong phú, phản ánh sự đa dạng của nền văn hóa xứ Nghệ. Theo khu vực, có làng nghề của cư dân ven biển, làng nghề của cư dân đồng bằng, làng nghề của cư dân vùng trung du, làng nghề của các dân tộc thiểu số vùng miền núi phía Tây của tỉnh. Theo lĩnh vực, có làng nghề thủ công nghiệp, làng nghề ngư nghiệp, làng nghề nông nghiệp, làng nghề thương mại dịch vụ. Theo chủ thể, có làng nghề của người Kinh, làng nghề của người Thái, làng nghề của người Thổ, làng nghề của người Mông, làng nghề của người Khơ Mú... Tuy vậy, trong thực tế đời sống, chúng ta vẫn thường quen gọi nôm na, dân dã làng nghề gắn với tên gọi sản phẩm là làng nghề sản xuất tương, làng nghề sản xuất nước mắm, làng nghề muối, làng nghề bánh đa, làng nghề thổ cẩm, làng nghề đan lát, làng nghề mộc, làng nghề gốm, làng nghề rèn, làng nghề trồng cây cảnh v.v...
Trải dài theo thời gian, qua những giai đoạn thăng trầm của lịch sử, trong không gian làng xã, ngành nghề nông thôn nói chung và làng nghề, làng nghề truyền thống nói riêng đã khẳng định vai trò, vị trí, sức sống bền bỉ trong sự phát triển chung. Không chỉ tạo ra việc làm, thu nhập, đó là sự kết tinh của đời sống văn hóa tinh thần mỗi vùng miền, là niềm tự hào của người dân bản địa, là sự cố kết cộng đồng bền chặt.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, hiện nay ngành nghề nông thôn vẫn đang gặp không ít khó khăn, thách thức. Hầu hết các cơ sở sản xuất ngành nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh đều hoạt động ở quy mô nhỏ lẻ, manh mún; hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ, thiếu vốn để đầu tư nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị dây chuyền sản xuất, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, mẫu mã sản phẩm. Ô nhiễm môi trường ở một số làng nghề chưa được giải quyết dứt điểm. Một số sản phẩm truyền thống có nguy cơ bị mai một, nhiều cơ sở thiếu lao động trẻ, kế cận. Việc liên kết giữa các hộ sản xuất, hợp tác xã và doanh nghiệp còn lỏng lẻo, dẫn đến giá trị gia tăng thấp, khó tiếp cận hoặc mở rộng thị trường...
Về kết quả thực hiện chính sách hỗ trợ của tỉnh, do thiếu nguồn lực và chưa thực hiện được cơ chế lồng ghép nguồn vốn nên việc bố trí ngân sách hàng năm theo Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐND còn hạn chế. Thêm vào đó, công tác quy hoạch khu sản xuất tập trung, cụm công nghiệp làng nghề tại các địa phương chưa được đồng bộ,... Vì vậy, đến nay mới chỉ thực hiện được 1 chính sách là hỗ trợ công nhận làng nghề, các chính sách hỗ trợ khác hầu như chưa thực hiện được.
Bước sang giai đoạn mới 2026 - 2030, dự thảo Bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới dự kiến gồm 10 tiêu chí và 53 chỉ tiêu. Bộ tiêu chí tập trung vào chất lượng cuộc sống và sự phát triển bền vững thay vì chỉ chú trọng số lượng. Các điểm mới cơ bản là tăng cường chuyển đổi số, kinh tế nông thôn xanh và tuần hoàn, hạ tầng sáng - xanh - sạch - đẹp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chú trọng yếu tố văn hóa - xã hội, môi trường - cảnh quan. Liên quan trực tiếp đến phát triển ngành nghề nông thôn, dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Bộ tiêu chí quy định các xã đạt chuẩn nông thôn mới phải có khu công nghiệp hoặc cụm công nghiệp, khu vực sản xuất, dịch vụ quy mô phù hợp theo quy hoạch, đảm bảo đáp ứng các quy định hiện hành.
Cùng với việc xây dựng Bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2026 - 2030, hiện nay Chính phủ đang xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 52/2018/NĐ-CP theo hướng đảm bảo ngành nghề nông thôn phát triển xanh hơn, “số” hơn, vươn xa hơn để phù hợp xu hướng phát triển mới. Đó là sự hỗ trợ, tiếp thêm nguồn lực để những giá trị truyền thống được phát huy trong đời sống hiện đại.
Tỉnh cũng đã có chủ trương, yêu cầu các cơ quan, đơn vị, địa phương rà soát, đánh giá hiệu quả thực hiện các cơ chế, chính sách trên địa bàn tỉnh, làm cơ sở để xây dựng, ban hành các cơ chế, chính sách tạo động lực phát triển trong giai đoạn mới. Là lĩnh vực trụ đỡ trong phát triển cũng như đảm bảo an sinh xã hội, ngành Nông nghiệp và Môi trường cần tập trung rà soát, đánh giá kỹ lưỡng, toàn diện để xây dựng các chính sách có tính trọng tâm, trọng điểm về phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển sản phẩm OCOP, phát triển ngành nghề nông thôn, phát triển chuỗi liên kết tiêu thụ nông sản v.v...Trong thời gian tới, với các chính sách, giải pháp mang tính đồng bộ, ngành nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh sẽ có điều kiện phát triển hơn, góp phần quan trọng trong xây dựng nông thôn mới./.



