Việc huy động, phân bổ, sử dụng nguồn vốn giảm nghèo

Đảng và Nhà nước ta xác định công tác giảm nghèo bền vững là chủ trương lớn, quan trọng, nhất quán, xuyên suốt trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Vì vậy, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh nói riêng được đầu tư nguồn lực lớn, với tổng nguồn vốn là 2.072.916 triệu đồng trong đó ngân sách trung ương là 2.018.122 triệu đồng và 54.794 triệu đồng từ ngân sách tỉnh. Dòng vốn này đã và đang đến từng huyện nghèo, từng xã, thôn đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh.

Đoàn khảo sát mô hình trồng bưởi tại xã Qùy Hợp

Trong thời gian qua, việc huy động, phân bổ, giải ngân nguồn vốn Chương trình đã được các cấp các ngành lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, nhờ vậy việc phân bổ vốn cơ bản kịp thời, đảm bảo theo nguồn vốn được trung ương phân bổ, việc giải ngân vốn đã được đẩy mạnh góp phần sử dụng có hiệu quả nguồn vốn. Theo báo cáo của UBND tỉnh nguồn vốn thực hiện chương trình giai đoạn 2021 - 2025: 2.072.916 triệu đồng, đã phân bổ: 2.057.286 triệu đồng, tính đến ngày 20/10/2025 đã giải ngân 631,96 tỷ đồng đạt 79,33%; số vốn còn lại chưa giải ngân là 425,326 tỷ đồng, trong đó: Vốn đầu tư phát triển: 918.868 triệu đồng (ngân sách trung ương), đã phân bổ 903.238 triệu đồng đạt 98,29%; đã giải ngân 713.389 triệu đồng (đạt 78,98%), số vốn còn lại chưa giải ngân là 189,849 tỷ đồng;

Vốn sự nghiệp: 1.154.048 triệu đồng (gồm 1.099.254 triệu đồng ngân sách trung ương, 54.794 triệu đồng ngân sách tỉnh), đã phân bổ chi tiết 100% kế hoạch vốn được giao, đã giải ngân 918,571 tỷ đồng đạt 79,6%, số vốn còn lại chưa giải ngân 235,477 tỷ đồng.

Phát triển mô hình chăn nuôi giúp người dân khu vực miền núi Nghệ An nâng cao thu nhập, giảm nghèo bền vững

Cùng với nguồn lực của nhà nước, việc huy động các nguồn lực khác cho công tác giảm nghèo đã được tỉnh quan tâm, chỉ đạo thực hiện bằng nhiều hình thức, nhiều giải pháp, nhất là trong huy động nguồn vốn xã hội hóa từ sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân, sự tham gia tích cực của người dân. Khuyến khích, kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, liên kết với nông dân trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, đóng góp tích cực xây dựng nông thôn mới. Trong thời gian qua, phong trào thi đua “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”; các cuộc vận động, ủng hộ “Quỹ vì người nghèo”, Chương trình “Tết vì người nghèo”, Chương trình vận động hỗ trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo, hộ có khó khăn về nhà ở và huy động các nguồn lực để hỗ trợ sinh kế, hỗ trợ người dân vươn lên thoát nghèo được tổ chức tạo sự lan tỏa trong Nhân dân.

Bên cạnh đó, trong thời gian qua toàn tỉnh đã huy động có hiệu quả các dòng vốn tín dụng đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; tỉnh đã đẩy mạnh công tác cho vay đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo để giải quyết việc làm thông qua Ngân hàng Chính sách Xã hội tỉnh, trong đó: đã cấp vốn tín dụng ưu đãi cho 346.891 hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong đó có: 35.763 hộ nghèo, 64.755 hộ cận nghèo, 39.314 hộ mới thoát nghèo vay vốn sản xuất kinh doanh tại vùng khó khăn được hỗ trợ vay vốn phát triển sản xuất, vay vốn cho con đi học, vay vốn đi lao động ở nước ngoài, vay vốn sửa chữa, cải tạo, xây mới, mua nhà ở xã hội, vay vốn để làm công trình nước sạch, công trình vệ sinh nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống.

Hiệu quả sử dụng nguồn vốn thúc đẩy giảm nghèo

Nguồn vốn giảm nghèo đã được phân bổ, sử dụng và quản lý để đầu tư cho các lĩnh vực, như: phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội các huyện nghèo, trong đó phát triển hạ tầng giao thông chiếm khoảng 77% (33/43 công trình), phát triển hạ tầng giáo dục chiếm khoảng 14% (6/43 công trình), phát triển hạ tầng văn hoá chiếm khoảng 7% (03/43 công trình), phát triển hạ tầng thuỷ lợi chiếm khoảng 2,3% (01/43 công trình).

Gia đình Anh Vi Văn Phượng tại bản Na Xén được hỗ trợ bò, hỗ trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo

Đặc biệt, các chính sách tín dụng ưu đãi, đào tạo nghề và hỗ trợ sinh kế đã giúp hàng triệu hộ dân chuyển từ thụ hưởng sang chủ động sản xuất. Đây là nền tảng để giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo và góp phần ổn định xã hội... Trong giai đoạn 2021 - 2025 đã có 176 mô hình đa dạng hoá sinh kế, (trong đó có 18 mô hình trồng trọt, 145 mô hình chăn nuôi, 14 mô hình lĩnh vực lâm nghiệp) và 90 dự án phát triển sản xuất (trong đó có 11 dự án trồng trọt, 67 dự án chăn nuôi, 3 dự án lĩnh vực lâm nghiệp, 3 dự án khai thác thủy sản). Việc triển khai các mô hình, dự án đã góp phần đổi mới phương thức, kỹ thuật sản xuất, tăng thu nhập; gắn với quy hoạch sản xuất, đề án chuyển đổi cơ cấu sản xuất của địa phương theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, phát triển các sản phẩm có tiềm năng, thế mạnh tại địa phương, tạo giá trị gia tăng cho người sản xuất, thoát nghèo bền vững.

Việc huy động sử dụng nguồn lực đầu tư trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo đã được triển khai thực hiện góp phần phát triển giáo dục nghề nghiệp cả về quy mô và chất lượng đào tạo, hỗ trợ đào tạo nghề cho người nghèo, người dân sinh sống trên địa bàn huyện nghèo, tạo điều kiện tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong giai đoạn 2021 - 2025 đã đào tạo nghề cho 7.824 lao động, hỗ trợ đào tạo cho 298 lao động, hỗ trợ chi phí khác trong quá trình đào tạo cho 127 lao động đi làm việc ở nước ngoài, tổ chức 153 phiên giao dịch việc làm cố định, 254 phiên giao dịch việc làm lưu động, 10 Ngày hội, hội chợ việc làm; thực hiện thu thập nhu cầu tuyển dụng của 502 doanh nghiệp với 64.850 vị trí việc làm mới;...

Bò cái Lai sind được cấp cho hộ nghèo tại xã Qùy Hợp

 Việc cải thiện dinh dưỡng cho hộ nghèo cũng được triển khai thực hiện, với 9.790 trẻ em dưới 5 tuổi được bổ sung vi chất dinh dưỡng, 9.105 bà mẹ có con dưới 5 tuổi được tư vấn dinh dưỡng, 623 phụ nữ mang thai được bổ sung vi chất dinh dưỡng, góp phần cải thiện tình trạng dinh dưỡng và giảm suy dinh dưỡng thấp còi, chăm sóc sức khỏe, nâng cao thể trạng và tầm vóc của trẻ em dưới 16 tuổi thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và trẻ em sinh sống trên địa bàn huyện nghèo.

Việc hỗ trợ nhà ở đã góp phần hỗ trợ cho hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn các huyện: Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong, Quỳ Châu có nhà ở an toàn, ổn định, có khả năng chống chịu tác động của thiên tai, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân với 6.152 hộ được hỗ trợ (xây mới 3.528 hộ, sửa chữa 2.642 hộ).

Các nguồn lực này đã được sử dụng có hiệu quả góp phần thay đổi dần diện mạo vùng nghèo, vùng miền núi khó khăn, đời sống vật chất và tinh thần của người dân từng bước được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm so với trước đây. Giai đoạn 2021 - 2024, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh đã giảm từ 7,8% năm 2021 xuống còn 4,16% năm 2024; tỷ lệ hộ cận nghèo giảm từ 6,59% năm 2021 xuống còn 5,42% năm 2024. Ước đến cuối năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh còn 3,13%, miền núi còn 8,66% đạt mục tiêu đề ra. Nhiều bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi cao trước đây thiếu điện, thiếu nước, giao thông cách trở, nay đã có hạ tầng cơ bản đồng bộ. Đường bê tông đến tận thôn bản, học sinh được đến trường trong điều kiện tốt hơn, người dân được tiếp cận dịch vụ y tế thuận lợi hơn.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, việc huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý các nguồn vốn Chương trình giảm nghèo trên địa bàn tỉnh còn gặp một số khó khăn, hạn chế nhất định, đó là: Tiến độ thực hiện và giải ngân nguồn vốn Chương trình còn chậm, nguy cơ rất lớn hết giai đoạn thực hiện Chương trình cũng không giải ngân được hết nguồn vốn.

Việc xác định nhu cầu, lập kế hoạch, phân bổ vốn chưa sát với thực tế ở một số dự án, tiểu dự án, một số địa phương, chưa đảm bảo nguyên tắc đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, bền vững. Việc huy động, lồng ghép các nguồn lực để thực hiện các dự án, tiểu dự án chưa thực hiện được nhiều. Việc bố trí nguồn vốn thực hiện Chương trình chưa đảm bảo đủ 10% theo quy định.

Những khó khăn, hạn chế trên được xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm cả chủ quan và khách quan, bao gồm: Số lượng văn bản thực hiện Chương trình nhiều, có nội dung chưa đồng bộ, chưa rõ ràng; việc bố trí nguồn lực của Trung ương cho địa phương còn thiếu, chậm, chưa linh hoạt: có lúc đến tận giữa năm Trung ương mới giao vốn (đối với bộ ngành), hoặc bổ sung muộn. Việc Trung ương giao chi tiết vốn sự nghiệp theo năm và từng lĩnh vực, theo dự án, tiểu dự án thành phần dẫn đến nguồn lực bị phân tán, khó thực hiện được cơ chế lồng ghép vốn, chuyển nguồn linh hoạt để sử dụng vốn hiệu quả. Nguồn vốn đối ứng của ngân sách tỉnh còn hạn chế, phụ thuộc nhiều vào nguồn thu tiền sử dụng đất nên không đủ nguồn lực để đối ứng kịp thời.

Sự phối hợp giữa một số sở, ngành cấp tỉnh, giữa các sở và địa phương trong quá trình xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện còn chưa chặt chẽ nên triển khai một số nội dung còn chậm so với yêu cầu (xây dựng kế hoạch, phân bổ vốn, báo cáo). Một số địa phương còn lúng túng trong cách thức triển khai, chưa thực sự chủ động tích cực trong chỉ đạo, điều hành, triển khai thực hiện.

Giải pháp về huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả nguồn vốn Chương trình

Trong bối cảnh thực hiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp, đổi mới cách tiếp cận, chuyển từ “giảm nghèo theo tiêu chí” sang “giảm nghèo thích ứng” với bối cảnh mới, để phát huy kết quả đạt được, thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xoá đói giảm nghèo, đồng thời khắc phục khó khăn, hạn chế, tạo bứt phá trong huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý nguồn lực giảm nghèo trong giai đoạn 2026 -2030, Đoàn giám sát của HĐND tỉnh về việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đã đề nghị các bộ, ngành trung ương xem xét điều chỉnh giảm tỷ lệ vốn đối ứng hoặc không yêu cầu đối ứng khi thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia trong giai đoạn 2026 - 2030 đối với những tỉnh chưa tự cân đối được ngân sách, trong đó có tỉnh Nghệ An. Đặc biệt, không yêu cầu bố trí vốn đối ứng đối với các đối tượng là hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo nhằm đảm bảo tính nhân văn, phù hợp với thực tiễn, góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững.

Tăng cường phân cấp, giao quyền tự chủ cho các địa phương, nhất là cấp xã trong triển khai thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia. Quyết định cơ chế giao ngân sách các Chương trình mục tiêu quốc gia cả gói cho cấp tỉnh. Đồng thời, giao kế hoạch vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách trung ương thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2026 ‑ 2030 đồng thời với thời gian giao kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách nhà nước, để các địa phương có đủ thời gian triển khai và bảo đảm tính đồng bộ trong xây dựng kế hoạch đầu tư công trên địa bàn tỉnh.

Cho phép kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân nguồn vốn chưa giải ngân hết của các năm trước, đặc biệt là nguồn vốn chưa giải ngân hết của năm 2025 để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cho đến khi ban hành và triển khai thực hiện Chương trình của giai đoạn 2026 - 2030./.