Rõ lộ trình triển khai chính sách môi trường

Theo đại biểu Hoàng Minh Hiếu (Nghệ An), qua rà soát, nhiều kiến nghị từ Báo cáo giám sát chuyên đề “việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành" đã được tiếp thu trong quá trình sửa đổi Luật bảo vệ môi trường lần này. Tuy nhiên, vẫn còn một số nội dung chưa được thể chế hóa hoặc cụ thể hóa trong dự thảo.

Về phạm vi cấp giấy phép môi trường, đại biểu nêu rõ: khoản 3 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 định nghĩa giấy phép môi trường chỉ cấp cho các cơ sở “có hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ”. Quy định này có thể dẫn đến việc bỏ sót một số chủ thể có khả năng gây ô nhiễm lớn, như các bệnh viện công hoặc các dự án công có nguồn phát thải đáng kể nhưng không thuộc phạm vi cấp phép.

Báo cáo giám sát đã kiến nghị bỏ cụm từ “có hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ” để mở rộng phạm vi điều chỉnh, song dự thảo hiện nay vẫn chưa tiếp thu nội dung này. Đại biểu đề nghị, cơ quan chủ trì soạn thảo xem xét, giải thích rõ hơn nhằm tránh để lại lỗ hổng pháp lý trong kiểm soát nguồn phát thải.

z7194260196627_8072567a4dbae85230a3fc990fce480e.jpg
ĐBQH Hoàng Minh Hiếu (Nghệ An) phát biểu

Liên quan đến việc phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn, đại biểu cho biết: việc triển khai tại các địa phương đang gặp nhiều vướng mắc. Văn bản hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường đến tháng 3.2025 mới được ban hành, trong khi khoản 7 Điều 79 của Luật quy định chậm nhất đến ngày 31.12.2024 các địa phương phải tổ chức thực hiện. “Thời hạn này cần được cân nhắc lại do chưa có đủ điều kiện và hướng dẫn cụ thể để triển khai”, đại biểu nhấn mạnh.

Đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét bổ sung quy định về lộ trình và thời gian áp dụng chính sách quản lý chất thải rắn sinh hoạt vào các điều khoản cụ thể của dự thảo để bảo đảm tính khả thi.

Cũng theo đại biểu Hoàng Minh Hiếu, nhiều nội dung được nêu trong Báo cáo giám sát cho thấy các khó khăn trong thu hút đầu tư vào lĩnh vực xử lý nước thải đô thị và chất thải rắn sinh hoạt vẫn chưa được khắc phục. Giá dịch vụ xử lý nước thải hiện chỉ chiếm khoảng 15 – 30% giá nước sạch, mức này chưa đủ hấp dẫn để doanh nghiệp tham gia đầu tư.

Đại biểu phân tích rõ hơn: Giá nước sạch hiện nay không cao, nên kéo theo giá xử lý nước thải thấp. Tuy nhiên, cần cân nhắc lại chính sách giá nước sạch, bởi mặc dù mức giá người dân chi trả chưa cao, chi phí thực tế để có nước sinh hoạt an toàn lại rất lớn. Hầu hết các hộ dân đô thị phải đầu tư hệ thống lọc nước, thay lõi định kỳ, đây là khoản chi đáng kể. Việc duy trì giá xử lý nước thải ở mức thấp như hiện nay khiến khó thu hút nhà đầu tư tham gia lĩnh vực này.

z7194260090591_4d77a41895503dbc18f069280816e299.jpg
Các ĐBQH tham dự phiên thảo luận tổ

Cùng với đó, đại biểu nêu rõ: Chính sách phí và thuế bảo vệ môi trường hiện chưa được tái đầu tư hợp lý; khung pháp lý cho hình thức hợp tác công – tư (PPP) trong lĩnh vực môi trường còn thiếu, khiến các địa phương gặp khó trong huy động nguồn lực xã hội hóa. Đại biểu đề nghị Chính phủ nghiên cứu giải pháp tổng thể, có thể dưới dạng gói sửa đổi liên quan giữa nhiều luật để bảo đảm tính đồng bộ, đồng thời xem xét cơ chế điều chỉnh chi phí nhằm bảo đảm chất lượng nước sinh hoạt, nâng cao hiệu quả hệ thống xử lý tập trung, thay vì dồn gánh nặng chi phí về phía người dân.

Mở rộng sử dụng kinh phí trồng rừng thay thế, giám sát cơ chế tạm sử dụng rừng

Tham gia góp ý vào dự thảo luật, đại biểu Dương Khắc Mai (Lâm Đồng) đánh giá cao Chính phủ trong việc đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, thực hiện sửa đổi đồng thời 15 luật nhằm tháo gỡ điểm nghẽn trong quá trình thực thi.

z7194260121553_34cdcc9bc49f44e14861b5a6d42ef85a.jpg
ĐBQH Dương Khắc Mai (Lâm Đồng) phát biểu

Theo đại biểu, phạm vi điều chỉnh của dự án luật, liên quan trực tiếp đến lĩnh vực nông nghiệp, tài nguyên và môi trường, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi hơn 70% diện tích cả nước gắn với nông nghiệp, lâm nghiệp và tài nguyên thiên nhiên.

Đại biểu bày tỏ tán thành với việc sửa đổi Điều 20 của Luật Lâm nghiệp, nhằm bảo đảm thống nhất với Luật Đất đai, cụ thể là khoản 5 Điều 248… Việc sửa đổi này cho phép các dự án thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Chính phủ hoặc HĐND cấp tỉnh không cần thực hiện thủ tục chuyển mục đích sử dụng rừng riêng, tránh chồng chéo, rút ngắn thời gian thẩm định, tạo thuận lợi cho các dự án phát triển kinh tế – xã hội; đồng thời, vẫn bảo đảm nguyên tắc quản lý thống nhất tài nguyên rừng.

Bên cạnh đó, đại biểu ủng hộ bổ sung quy định về cơ chế “tạm sử dụng rừng” cho các hoạt động phục vụ lợi ích quốc gia, công cộng hoặc phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian ngắn mà không làm thay đổi mục đích sử dụng. Sau khi hết thời hạn, diện tích rừng phải được khôi phục nguyên trạng.

Đại biểu nhấn mạnh, cần có quy định cụ thể về khái niệm “nguyên trạng”, bao gồm cả thảm thực vật, lớp đất, hệ sinh thái và sinh cảnh rừng, để bảo đảm tính toàn vẹn môi trường, nhất là đối với rừng tự nhiên và rừng đặc dụng. Đồng thời, cơ quan quản lý cần có cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc tạm sử dụng rừng, đặc biệt là sau khi hết thời hạn sử dụng, nhằm bảo đảm rừng được phục hồi đúng quy định và ngăn ngừa các hành vi lợi dụng chính sách.

Liên quan đến Điều 21 về trồng rừng thay thế, đại biểu cho rằng việc mở rộng phạm vi sử dụng kinh phí trồng rừng thay thế là cần thiết và phù hợp với thực tiễn. Hiện nay, nhiều địa phương không còn quỹ đất phù hợp để trồng mới, dẫn đến tồn đọng kinh phí lớn, trong khi nhu cầu chăm sóc, khoanh nuôi, tái sinh và cải tạo rừng lại rất cao.

Vì vậy, nên cho phép sử dụng nguồn kinh phí này cho các hoạt động lâm sinh có giá trị sinh thái tương đương, như khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh, chăm sóc và cải tạo rừng nghèo kiệt. Cách làm này vừa nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách, vừa góp phần phục hồi và bảo vệ hệ sinh thái rừng bền vững.

Đại biểu cũng đồng tình với việc chuyển đổi thuật ngữ “Quỹ ngoài ngân sách nhà nước” thành “Quỹ tài chính”, để quỹ này có thể được bổ sung nguồn từ ngân sách nhà nước khi cần thiết. Việc điều chỉnh thuật ngữ này giúp tăng tính linh hoạt, đồng bộ với Luật Đầu tư công và các luật tài chính khác, bảo đảm thuận lợi trong huy động và quản lý nguồn lực cho công tác bảo vệ và phát triển rừng.

Đại biểu Dương Khắc Mai cũng thống nhất với thời điểm luật có hiệu lực từ ngày 1/5/2026, nhằm tạo điều kiện cho các bộ, ngành và địa phương có đủ thời gian chuẩn bị văn bản hướng dẫn và triển khai đồng bộ. Theo đại biểu, điều này sẽ giúp các quy định mới nhanh chóng đi vào cuộc sống, bảo đảm hiệu quả, thiết thực và phù hợp với yêu cầu quản lý, phát triển lâm nghiệp trong giai đoạn hiện nay.