Theo đó, đại biểu bày tỏ nhất trí cao Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Quốc phòng, an ninh về về sự cần thiết ban hành Luật này. Đại biểu cho rằng hồ sơ dự án Luật chuẩn bị đầy đủ, kỹ lưỡng, có nhiều tài liệu chuẩn bị công phu, dự thảo Luật đã bám sát chủ trương của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại, lưỡng dụng, đảm bảo sự tham gia của tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp trong phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp; khắc phục hạn chế, vướng mắc những bất cập trong thực tiễn. Tuy nhiên, đại biểu vẫn còn có những băn khoăn đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, xem xét về một số quy định trong dự thảo Luật.

ĐBQH tỉnh Nghệ An: Thiếu tướng Trần Đức Thuận, Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Quốc phòng, An ninh của Quốc hội tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XV.

Khái niệm về Công nghiệp quốc phòng, an ninh chưa thể hiện rõ tính đặc thù của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh

Quy định tại khoản 1 Điều 2, Công nghiệp quốc phòng, an ninh “là bộ phận của công nghiệp quốc gia, một phần quan trọng của thực lực, tiềm lực quốc phòng, an ninh, là ngành đặc thù, có nhiệm vụ nghiên cứu phát triển, sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa, tăng hạn sử dụng vũ khí trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, vật tư kỹ thuật và các sản phẩm, dịch vụ khác phục vụ quốc phòng, an ninh”. Theo đại biểu, khái niệm như thế này chưa chặt chẽ, sản phẩm của Công nghiệp quốc phòng, an ninh còn rộng, chưa thể hiện rõ tính đặc thù của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Tất cả các sản phẩm phục vụ cho quốc phòng, an ninh đều có đầy đủ các nhiệm vụ “nghiên cứu, phát triển, sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa, tăng hạn sử dụng” là chưa phù hợp, do đó đại biểu đề nghị cần nghiên cứu kỹ lưỡng khái niệm này theo hướng làm rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của công nghiệp quốc phòng, an ninh; sản phẩm của công nghiệp quốc phòng, an ninh nên tập trung vào vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ và trang bị, vật tư, vật dụng đặc thù phục vụ quốc phòng, an ninh chứ không phải tất cả sản phẩm, dịch vụ phục vụ quốc phòng, an ninh; những sản phẩm lưỡng dụng sử dụng rộng rãi, không có tính đặc thù không nên đưa vào phạm vi điều chỉnh Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp.

Cùng với đó, đại biểu cho rằng Công nghiệp quốc phòng, an ninh là một bộ phận của công nghiệp quốc gia, một phần quan trọng của tiềm lực quốc phòng, an ninh, với sự tham gia của các thành phần kinh tế trong đó cơ sở công nghiệp quốc phòng, cơ sở công nghiệp an ninh làm nòng cốt, nhằm nghiên cứu phát triển, sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa, tăng hạn sử dụng vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự, phương tiện kỹ thuật an ninh và các trang bị, vật tư, vật dụng  đặc thù phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.

Khái niệm về “công nghệ lưỡng dụng” còn gây khó hiểu và khó khăn cho việc nghiên cứu, áp dụng

Nghiên cứu về khái niệm này, Đại biểu cho rằng phát triển công nghiệp Quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng là chủ trương rất đúng của Đảng ta. Tuy nhiên dự thảo Luật hiện nay chỉ có khái niệm “công nghệ lưỡng dụng” quy định định tại Điều 2 và một số cơ chế, chính sách về phát triển công nghiệp Quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng được quy định tại khoản 4 Điều 4, khoản 3 Điều 6, khoản 1 Điều 17, 23, 24, 29, 47, 53, 55, 59, 60. được quy định ở nhiều điều, khoản gây khó hiểu và khó khăn cho việc nghiên cứu, áp dụng. Do đó, đại biểu đề nghị dự thảo Luật nên dành một mục hoặc một điều quy định về tính lưỡng dụng của công nghiệp quốc phòng, an ninh, trong đó làm rõ khái niệm và nội hàm của tính lưỡng dụng. Từ những nhận định đó đại biểu phân tích tính lưỡng dụng thể hiện ở chỗ: các cơ sở công nghiệp quốc phòng, an ninh nòng cốt ngoài việc tạo ra các sản phẩm phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu không ảnh hưởng nhiệm vụ quốc phòng, an ninh được quyền tận dụng cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống dây chuyền công nghiệp tạo ra các sản phẩm phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Các cơ sở công nghiệp khác, ngoài việc tạo ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu dân sinh có thể tham gia nghiên cứu, chế tạo, sản xuất các sản phẩm phục vụ yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Đối với các sản phẩm đặc thù có tính năng vừa phục vụ được nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, vừa phục vụ nhiệm vụ dân sinh như: máy bay, tàu thủy cao tốc, tàu ngầm, máy bay không người lái, phương tiện bay siêu nhẹ… cần có quy định về việc liên doanh, kiên kết, thẩm quyền thẩm định, phê duyệt, chế độ chính sách đặc thù. Thời gian qua nhiều tổ chức, cá nhân tự phát triển tàu ngầm mi ni, tàu lặn, tàu cao tốc, máy bay trực thăng, phương tiện bay cá nhân…, nếu thành công thì đây là sản phẩm rất hữu ích vừa phục vụ dân sinh vừa phục vụ quốc phòng, an ninh và đây chính là sản phẩm lưỡng dụng đặc thù luật cần có quy định cụ thể vừa để khuyến khích tổ chức, cá nhân sáng tạo, đóng góp nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, cũng cố quốc phòng, an ninh, vừa quản lý chặt chẽ để đảm bảo an toàn, an ninh quốc gia.

Các ĐBQH đoàn Nghệ An tham dự kỳ họp ở Hội trường Diên Hồng, Nhà Quốc hội

Cần nghiên cứu quy định cụ thể về mô hình Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và Tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao

Trao đổi về vấn đề này, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo cần nghiên cứu quy định cụ thể về mô hình Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và Tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao trong dự án Luật này bởi theo đại biểu, đây là nhiệm vụ rất khó khăn, đặt ra yêu cầu cao cho phát triển công nghiệp quốc phòng trong thời gian tới, đồng thời cũng là nhiệm vụ quan trọng đã được Nghị quyết Đại hội XIII và Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định “tổ chức lại các cơ sở công nghiệp Quốc phòng nòng cốt, tiến tới thành lập tổ hợp công nghiệp quốc phòng bảo đảm tinh, gọn, hiệu quả, tiên tiến, hiện đại”. Việc xây dựng các tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao vừa đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp quốc phòng của đất nước trong tình hình mới, vừa phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Cùng với đó, đại biểu đề nghị Luật cần xác định rõ phương thức liên kết, hợp tác, phân công, chuyên môn hóa; xây dựng các cơ chế, chính sách đặc thù để thu hút sự tham gia của các tổ chức, doanh nghiệp trong nghiên cứu, sản xuất các hệ thống vũ khí trang bị kỹ thuật, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia, liên kết, hợp tác này.

Nghiên cứu khái niệm Tổ hợp công nghiệp quốc phòng Việt Nam và Tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao, lưỡng dụng, đại biểu cho rằng trong báo cáo giải trình, tiếp thu ngày 13/10/2023 của Chính phủ đã có phương án bổ sung quy định  này vào dự thảo Luật theo hướng bổ sung tại khoản 23, khoản 24 Điều 2 dự thảo Luật nhưng cần quy định nội hàm cụ thể để tạo cơ sở pháp lý cho công nghiệp quốc phòng triển khai thực hiện trong thời gian tới, đặc biệt chú ý việc xác định lộ trình, nguyên tắc, thẩm quyền, chính sách  đối với việc tổ chức tổ hợp công nghiệp quốc phòng.

Quy định cụ thể nhằm đảm bảo nguồn lực cho phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh

Theo đại biểu, nội dung này đã được đề cập ở mục 3 của dự thảo luật, cơ bản thể hiện rõ chủ trương, định hướng tạo nguồn lực đầu tư cho phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh đã được ghi nhận trong các văn bản của Đảng. Tuy nhiên, vẫn còn quy định chưa rõ, chưa cụ thể; mặt khác, thực tiễn nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước thời gian qua còn thấp, công tác huy động, xã hội hóa, cơ chế tín dụng đầu tư cho hoạt động sản xuất, nghiên cứu khoa học, chế độ chính sách cho các chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, an ninh chưa đáp ứng yêu cầu. Vì vậy, đại biểu đề nghị cần nghiên cứu để quy định cụ thể, chặt chẽ đảm bảo tính khả thi./.