Thứ nhất, liên quan đến phương thức thể hiện quyền lực của nhân dân. Tại Điều 1, của Dự thảo thể hiện nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ dại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của nhà nước. Theo tôi chúng ta nên sửa thành "nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện" hoặc "các hình thức thực hiện quyền lực của nhân dân gồm: dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện".

Tôi xin được xem xét vấn đề này trên quan điểm nhận thức nhân dân là nguồn gốc của quyền lực nhà nước còn chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước phải là các cơ quan nhà nước. Các thể chế khác chỉ có quyền tham gia công việc nhà nước, tham gia quản lý xã hội. Còn chức năng thực hiện quyền lực nhà nước thì phải thuộc về cơ quan nhà nước. Theo logic quy định nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước là chưa chính xác. Nếu sửa thành nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình hay các hình thức thực hiện quyền lực của nhân dân sẽ hợp lý hơn về mặt logic. Vừa phù hợp hơn với bản chất dân chủ của nhà nước ta khẳng định nhân dân là nguồn gốc của quyền lực.

Thứ hai, liên quan đến các quy định của Hiến pháp về Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị, xã hội tại Điều 9 và Điều 10. Tôi đồng ý với quan điểm tiếp thu của Ủy ban sửa đổi Hiến pháp theo hướng rút bỏ Điều 10, bổ sung một khoản vào Điều 9 bao gồm cụ thể các tổ chức chính trị xã hội như trong dự thảo. Tuy nhiên theo tôi Ủy ban dự thảo cần tiếp tục nghiên cứu thể hiện lại Khoản 1, Khoản 2 của Điều 9 mang tính khái quát hơn, theo hướng chỉ cần xác định nguyên tắc và sự hiện diện bình đẳng của các thành tố cơ bản trong hệ thống chính trị, để cùng Mặt trận tổ quốc Việt Nam phối hợp thống nhất hành động thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng, bảo vệ tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.

image_upload.file.a1d0f7ddd73f9a72.4453435f38353431202d204c65205468692054616d202d204e67686520616e2e4a5047.JPG

Đại biểu Lê Thị Tám phát biểu tại Hội trường kỳ họp

Tôi đề nghị sửa Khoản 3 của Điều 9 cho đúng với nguyên tắc điều chỉnh của nhà nước trong thực tế như sau: nhà nước bảo đảm điều kiện hoạt động cho Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội. Đồng thời nhà nước tạo điều kiện để các thành viên khác của Ủy ban Mặt trận tổ quốc và các tổ chức xã hội khác hoạt động động theo pháp luật.

Vấn đề thứ ba, Điều 54 về chế độ kinh tế, Uỷ ban dự thảo đưa ra 3 phương án, tôi đồng ý với phương án 3, khi chúng ta chú trọng nhấn mạnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, các thành phần kinh tế bình đẳng và cạnh tranh theo luật định, đồng thời tài sản hợp pháp của các chủ thể kinh doanh được bảo hộ. Đây là một chế định mới, tích cực đáng ghi nhận của dự thảo.

Việc nhà nước bảo hộ tài sản hợp pháp của các chủ thể kinh doanh cũng là thể hiện tính chất của nội hàm kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Vấn đề thứ tư, Điều 58 về thu hồi đất. Cử tri ở tất cả các điểm chúng tôi tiếp xúc trước kỳ họp đều tán thành cao quy định của Hiến pháp về đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, là nguồn lực quan trọng phát triển đất nước thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nước là chủ thể được toàn dân giao quyền sở hữu. Vì vậy trong trường hợp vì lý do quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng hay phát triển kinh tế cũng vì một mục tiêu tối thượng là phục vụ lợi ích chung của toàn dân. Nhà nước được toàn dân giao quyền sở hữu thì cũng được toàn dân giao quyền thu hồi để thực hiện các nhiệm vụ phục vụ lợi ích chung của toàn dân điều đó là hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên cử tri băn khoăn nhiều vì lâu nay các chế định pháp luật và cách thức vận hành các chế định pháp luật của nhà nước trong hoạt động về thu hồi đất, thiếu nhất quán dẫn đến việc sử sự thiếu công bằng trong thu hồi đất ảnh hưởng đến hình ảnh của nhà nước, niềm tin của nhân dân đối với nhà nước.

Cử tri kiến nghị với các dự án phát triển kinh tế nhà nước đứng ra thu hồi sau đó nhà nước tổ chức đấu thầu cho các doanh nghiệp, phần chênh lệch giữa giá thu hồi đất và giá đấu thầu nhà nước điều tiết sử dụng vào chính sách tái thiết hạ tầng cơ sở. Trong đó có chi hỗ trợ chính sách cho người bị thu hồi đất, tái hỗ trợ khu tái định cư là hợp lý nhất, không để tình trạng như lâu nay có dự án nhà nước thu hồi nhưng cũng có dự án nhà nước lại để cho doanh nghiệp đứng ra thoả thuận với người dân. Như vậy, nguồn lợi sinh ra trong quá trình doanh nghiệp thoả thuận với người dân không lớn nhưng gây thắc mắc co kéo giữa doanh nghiệp với người có đất, giữa người có đất với người ở liền kề, giữa người dân với nhà nước. Nhà nước cũng vì thế mà chưa thực hiện được thoả đáng, trách nhiệm của chủ sở hữu khi được toàn dân giao quyền. Mặt khác nhà nước lại để thất thu một khoản ngân sách lớn từ giá chênh lệch giữa giá thu hồi đất với giá đấu thầu đất lại không kiểm soát được một cách chặt chẽ việc thực hiện kế hoạch sử dụng đất, kế hoạch phát triển kinh tế dẫn đến dự án treo hoặc bị phá vỡ quy hoạch phát triển. Cử tri đề nghị Quốc hội nghiên cứu xây dựng chế định về phương thức thu hồi đất cụ thể, rõ ràng vào Hiến pháp để sau này khi sửa Luật đất đai và nghị định hướng dẫn thi hành luật cũng phải nhất quán đến từng loại dự án, nhất quán áp dụng trên quy mô cả nước, không để tình trạng thiếu đồng bộ, áp dụng luật mỗi nơi một kiểu như thời gian vừa qua.

Thứ năm, liên quan đến hiến định về thẩm quyền của Quốc hội. Tại Điểm 1, Điều 75 của dự thảo có ghi: "Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

"Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; Làm luật và sửa đổi luật.".

Theo tôi quy định Quốc hội có thẩm quyền làm Hiến pháp và làm luật là chưa nêu bật được những đặc trưng trong quyền lực của Quốc hội. Quy trình làm luật trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng gồm nhiều công đoạn và nhiều chủ thể tham gia, bao gồm cả quyền xây dựng luật, quyền thông qua luật và quyền công bố luật. Trong đó có khoảng 80% dự luật được quy định từ Chính phủ, còn việc công bố luật là thẩm quyền của nguyên thủ quốc gia, thẩm quyền đặc trưng của Quốc hội, phân biệt Quốc hội với những cơ quan khác trong quá trình làm luật đó là quyền thông qua luật, thông qua Hiến pháp.

Lý luận về quyền lập pháp hiện nay trên thế giới cũng đã được thay đổi. Lập pháp xét theo thẩm quyền của Quốc hội phải được hiểu là thông qua luật chứ không hẳn là làm luật. Hiến pháp của nhiều nước trên thế giới đã quy định theo hướng này nhằm khẳng định đặc trưng, quyền lực của Quốc hội. Vì vậy, tôi xin kiến nghị sửa đổi Điểm 1, Điều 75 của dự thảo thành "thông qua, sửa đổi Hiến pháp và các đạo luật".

Thứ sáu, thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao. Trong Điều 109 của dư thảo quy định về thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao, tôi đồng ý với việc Hiến pháp quy định cho Tòa án nhân dân tối cao có thêm thẩm quyền ban hành án lệ vì những lý do sau đây:

Một, việc áp dụng trong công tác xét xử xưa nay còn tồn tại nhiều bất cập, nhiều quy định của luật được hiểu và vận dụng không thống nhất giữa các tòa án dẫn đến tình trạng nhiều vụ án có tình tiết tương tự nhau nhưng kết quả xét xử lại khác nhau, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân, đặc biệt trong lĩnh vực án dân sự.

Việc các án lệ được ban hành sẽ giúp tăng cường việc thống nhất trong đường lối xét xử tòa án các cấp, tránh tình trạng xử oan sai, không thống nhất diễn ra nhiều như trong thời gian vừa qua. Mặt khác, việc án lệ được ban hành đồng thời sẽ giúp cho công tác đào tạo và nghiên cứu luật được nâng cao mang nhiều tính thực tiễn hơn.

N.M (tổng hợp)