1. Hạn chế và cân đối các dự án xây dựng sân golf và quy hoạch cấp phép xây dựng sân golf phù hợp với yêu cầu thực ở Việt Nam

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1946/QĐ-TTg ngày 26/11/2009 về việc phê duyệt quy hoạch sân golf Việt Nam đến năm 2020, trong đó xác định rõ mục tiêu, quan điểm, điều kiện hình thành, tiêu chí xây dựng sân golf và định hướng xây dựng phát triển sân golf giữa các vùng miền cho phù hợp, trên tinh thần sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả, đặc biệt không sử dụng đất lúa, đất màu, đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng để đầu tư xây dựng sân golf. Số lượng sân golf được quy hoạch đến năm 2020 là 90 sân nằm trên địa bàn 34/63 tỉnh, thành phố. Trong 90 dự án trên, có 29 sân golf đang hoạt động; 21 sân golf đang xây dựng; 13 sân golf được cấp giấy phép chứng nhận đầu tư; 27 sân golf được chấp nhận chủ trương đầu tư. Hiện tại số lượng sân golf nêu trên cũng tương ứng như các nước láng giềng đang ở trình độ phát triển như Việt Nam hiện nay. Qua kiểm tra của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và báo cáo của các sân golf đã đi vào hoạt động cho thấy, phần lớn các sân golf đã hoạt động đều mang lại hiệu quả khá tốt, có đóng góp lớn cho ngân sách, giải quyết được nhiều việc làm cho lao động tại chỗ và không gây ảnh hưởng tới môi trường sinh thái. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những bất cập cần sớm được khắc phục như: công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch sân golf của các Bộ, ngành và địa phương còn hạn chế; chưa phát hiện kịp thời các điểm bất hợp lý trong việc tổ chức thực hiện quy hoạch hệ thống sân golf, còn lợi dụng đất xây dựng sân golf để xây dựng các công trình bất động sản khác…; ở một vài địa phương vẫn chưa tạo sự đồng thuận cao của cộng đồng dân cư, nhất là trong lĩnh vực giải phóng mặt bằng, giải quyết việc làm cho những lao động bị thu hồi đất…

2. Về việc không đưa chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa vào giai đoạn 2011 - 2015

Tại báo cáo số 211/BC - CP ngày 17/10/2011 của Chính phủ trình Quốc hội về kết quả thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2006-2010, triển khai kế hoạch năm 2011 và đề xuất danh mục chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2012-2015. Trong danh mục 16 chương tình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2012 - 2015 Chính phủ đã trình Quốc hội thì chương trình mục tiêu quốc gia số 7 là chương trình mục tiêu quốc gia văn hóa. Trong chương trình mục tiêu quốc gia văn hóa đề xuất thực hiện giai đoạn 2012 - 2015 đã có dự án: “Hỗ trợ phát triển hệ thống cơ sở vui chơi giải trí cho trẻ em khu vực miền núi, vùng sâu, biên giới và đải đảo”

3. Điều kiện cấp phép, thực trạng và giải pháp đối với các cơ sở, doanh nghiệp cầm đồ để hạn chế hoạt động không đúng pháp luật.

Theo quy định tại khoản 1, điều 7 luật doanh nghiệp thì doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Đồng thời theo quy định tại điều 29 Nghị định số 43/2010/NĐ - CP về đăng ký doanh nghiệp thì kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp có quyền hoạt động kinh doanh, trừ trường hợp kinh doanh ngành, nghề yêu cầu phải có điều kiện. Hiện nay cả nước có khoảng 18 ngàn doanh nghiệp đăng ký kinh doanh dịch vụ cầm đồ. Ngoài ra, còn có một lượng lớn các cơ sở cầm đồ đăng ký hoạt động theo hình thức hộ kinh doanh do phòng Tài chính kế hoạch thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp đăng ký kinh doanh. Bên cạnh những thuận tiện về kinh tế thì hiện nay dịch vụ cầm đồ đã tác động trực tiếp đến tình hình an ninh, trật tự mà chưa có sự quản lý chặt chẽ của các cơ quan chức năng. Ngoài ra, các đối tượng cầm đồ cũng rất đa dạng, phức tạp, trong đó có phần nhiều là đối tượng hình sự, nghiện ma túy, cờ bạc…. Để hạn chế các cơ sở cầm đồ hoạt động không đúng pháp luật, cần phải nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước đối với dịch vụ cầm đồ theo hướng phối hợp quản lý liên ngành và tăng cường quản lý về điều kiện kinh doanh dịch vụ, tăng chế tài xử lý vi phạm.

4. Năm 2011, Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ cho phép bổ sung 40 dự án mới vào danh mục trái phiếu Chính phủ. Lý do có tới 333 dự án khởi công mới không thuộc vốn trái phiếu Chính phủ.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thông báo kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ năm 2011, trong đó lĩnh vực kiên cố hóa trường lớp học và các phòng khám đa khoa khu vực không thông báo cụ thể danh mục dự án. Các địa phương chủ động phân bổ vốn trái phiếu Chính phủ cho từng dự án cụ thể. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiến hành rà soát danh mục các dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ của các bộ, ngành, địa phương đã phát hiện ra 333 dự án bố trí sai đối tượng, do các địa phương đã bố trí sai; đã kiến nghị thu hồi số vốn trái phiếu Chính phủ đã bố trí cho 333 dự án này.

5. Giải pháp điều phối, đầu tư nguồn nhân lực chất lượng cao, đội ngũ nhân tài

Giải pháp điều phối phát triển nguồn nhân lực: Thứ nhất, Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22 tháng 7 năm 2011. Quy hoạch phát triển nhân lực của một số Bộ, ngành, địa phương đã được Bộ trưởng, Chủ tịch UBND tỉnh ký Quyết định phê duyệt. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án tổng thể phát triển thể lực và tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-2030 (Quyết định số 641/QĐ-TTg ngày 28 tháng 4 năm 2010). Đồng thời, Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020, Chiến lược phát triển dạy nghề giai đoạn 2011-2020 và Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đang được khẩn trương hoàn thiện để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt. Thứ hai, Chính phủ chỉ đạo tiếp tục triển khai thực hiện những chương trình, dự án và giải pháp phát triển nguồn nhân lực trình độ, chất lượng cao. Chính phủ sẽ chỉ đạo các ngành, các cấp tiếp tục triển khai thực hiện các chương trình, đề án ưu tiên đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có trình độ, chất lượng cao: Đề án 332 về đào tạo trình độ đại học và trên đại học bằng nguồn vốn ngân sách (do Bộ Giáo dục và Đào tạo điều hành); Đề án 165 về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước (do Ban Tổ chức Trung ương điều hành… Thứ ba, Chính phủ chỉ đạo triển khai trên diện rộng các chương trình, đề án đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH. Chính phủ chỉ đạo nhân rộng trên phạm vi cả nước Đề án đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp và nông thôn đến năm 2020 (Quyết định 1956/QĐ-TTg), Đề án hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc làm giai đoạn 2008-2015 và các đề án đào tạo được lồng ghép trong các Chương trình mục tiêu quốc gia như Chương trình giảm nghèo, các chương trình khuyến nông, khuyến ngư, khuyến công…

Về đầu tư phát triển nguồn nhân lực: Thứ nhất, tăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực. Về nguồn vốn ngân sách nhà nước: Đảm bảo tỷ trọng chi cho giáo dục, đào tạo ở mức 20% tổng chi ngân sách nhà nước.Tiếp tục phát hành trái phiếu Chính phủ để thực hiện các chương trình kiên cố hoá trường lớp học và nhà công vụ cho giáo viên, đảm bảo nâng cao chất lượng giáo dục phổ cập.Sẽ cấu trúc lại, thực hiện đổi mới căn bản trong việc xác định, huy động, sử dụng và tiếp cận các nguồn vốn ngân sách cho đào tạo nhân lực. Trước hết, vốn ngân sách cần tập trung vào đào tạo nhân lực trình độ cao của khu vực công, đào tạo nhân lực các ngành, nghề trong nước chưa đào tạo được hoặc đào tạo chưa đạt trình độ quốc tế (ví dụ như đào tạo nhân lực cho ngành năng lượng hạt nhân, công nghệ biển, nghiên cứu vũ trụ…), thực hiện các nhiệm vụ, chương trình, dự án đào tạo nhân lực theo mục tiêu ưu tiên, hỗ trợ bồi dưỡng, đào tạo nhân tài…; Sẽ sắp xếp, lồng ghép các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cho các chương trình, đề án đào tạo nhân lực hiện đang thực hiện và sẽ được thực hiện trong thời kỳ 2011-2020, tránh sự trùng lặp, chồng chéo và hướng vào thực hiện mục tiêu chung phát triển nhân lực của cả nước. Tiếp tục thực hiện Chương trình cho vay học sinh, sinh viên, kết hợp với những cải tiến về quản lý, thủ tục cho vay, quy mô mỗi khoản vay để tạo điều kiện cho sinh viên được dễ dàng tiếp cận nguồn vốn này; Thứ tư, tập trung ưu tiên đầu tư vốn ngân sách có nguồn gốc là vốn ODA cho đào tạo nhân lực có trình độ, chất lượng cao, đào tạo nghề đạt trình độ khu vực và quốc tế. Về các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước: Chính phủ chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường để tăng cường huy động các nguồn lực trong xã hội cho phát triển nguồn nhân lực. Đối với nguồn vốn của các doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức: Cần có cơ chế, chính sách để khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và có cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng, phát triển hệ thống đào tạo trong doanh nghiệp để trong thời kỳ đến năm 2020 doanh nghiệp phải trở thành lực lượng chủ đạo về đào tạo nghề; xây dựng Quy chế gắn kết doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo nhân lực, mở rộng hình thức đào tạo nhân lực theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp. + Đối với nguồn vốn từ người dân: Chính phủ chỉ đạo nghiên cứu xây dựng và thực hiện những cơ chế, chính sách mạnh để tăng cường huy động các nguồn vốn của người dân đầu tư và đóng góp bằng các hình thức: trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, góp vốn, mua công trái giáo dục, hình thành các loại Quỹ khuyến học của cộng đồng, huy động từ học phí...

Thứ hai, tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế để đẩy nhanh đào tạo nhân lực, trước hết tập trung ưu tiên cho việc đào tạo đội ngũ nhân lực đạt đẳng cấp quốc tế và nhân lực các ngành trọng điểm, các nghề mới hiện đại.Tăng cường gửi người Việt Nam đi đào tạo ở nước ngoài (bằng nguồn ngân sách nhà nước, khuyến khích du học tự túc, khuyến khích các cơ sở đào tạo trong nước mở rộng hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài và tranh thủ các nguồn viện trợ quốc tế) gắn với nâng cao hiệu quả và định hướng ngành nghề. Chú trọng mở rộng đào tạo ở trong nước bằng các nguồn lực ở nước ngoài (vốn, công nghệ, đội ngũ giảng viên …) để đào tạo các nhóm nhân lực đạt đẳng cấp quốc tế trong ngắn hạn và xây dựng được tiềm lực đào tạo hiện đại đạt trình độ quốc tế ở trong nước về lâu dài.

6. Tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh

Theo phân công nhiệm vụ của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh như: Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Đầu tư năm 2005; triển khai các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, khắc phục khó khăn như: đơn giản hoá thủ tục hành chính, minh bạch hoá các quy định liên quan đến điều kiện kinh doanh, gia nhập thị trường của doanh nghiệp thông qua chương trình cải cách đăng ký kinh doanh; triển khai đồng bộ và hiệu quả Nghị định số 56/2009/NĐ-CP, Nghị quyết số 22/NQ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNNVV, củng cố, kiện toàn hệ thống trợ giúp phát triển DNNVV từ Trung ương đến địa phương, đẩy nhanh triển khai Đề án thành lập Quỹ phát triển doanh nghiệp, Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV; triển khai có hiệu quả chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho DNNVV. Đối với khối DNNN, Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh công tác sắp xếp, cổ phần hoá; chuyển đổi các công ty nhà nước thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn sang mô hình công ty TNHH một thành viên. Bên cạnh đó, việc đổi mới công tác quản trị doanh nghiệp đối với DNNN cũng được chú trọng nhằm hướng tới áp dụng những thông lệ quản trị của thế giới, đảm bảo tính minh bạch và công khai. Những cơ chế, chính sách bao cấp, tạo đặc quyền kinh doanh cho DNNN cũng dần được xoá bỏ, buộc các DNNN phải cạnh tranh thực sự và kinh doanh bình đẳng theo cơ chế thị trường.

7. Về cơ chế thu hút, động viên các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư vào ngành điện:

Xây dựng nhà máy điện, đường dây tải điện là một trong những dự án được khuyến khích thực hiện theo Nghị định 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức Hợp đồng BOT, BTO và BT. Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản 1604/TTg-KTN ngày 12/9/2011 cho phép áp dụng một số cơ chế chính sách đối với các dự án BOT nhà máy nhiệt điện thuộc danh mục các dự án nguồn điện theo quy hoạch phát triển điện lực quốc gia quy định tại Quyết định 1208/QĐ-TTg ngày 21/7/2011. Theo đó, một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ và bảo đảm đầu tư đã được áp dụng với các dự án này bao gồm: ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất khẩu, nhập khẩu; ưu đãi về miễn tiền thuê đất; bảo đảm đầu tư trong trường hợp Chính phủ mua lại nhà máy khi xảy ra sự cố bất khả kháng tự nhiên; bảo lãnh của Chính phủ; tính giá điện bằng Đô la Mỹ; áp dụng pháp luật nước ngoài trong trường hợp phát sinh tranh chấp…

Việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách hợp tác giữa nhà nước và khu vực tư nhân (PPP) là nhiệm vụ quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng về các hình thức huy động nguồn vốn đầu tư của khu vực tư nhân. Nhiệm vụ này cũng được xác định là một trong những giải pháp cơ bản trong Đề án “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2011-2020”. Thực hiện Quyết định 71/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP), Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thành lập Tổ công tác liên ngành để thúc đẩy triển khai thí điểm một số dự án PPP nhằm tạo cơ sở để nghiên cứu, hoàn thiện chính sách và pháp luật trong lĩnh vực này. Sau quá trình thí điểm sẽ rút kinh nghiệm, tiếp thu những tập quán, thông lệ quốc tế để hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP, trong đó có việc nghiên cứu xây dựng Luật về PPP.

Cơ chế Hợp đồng BOO (Xây dựng - Sở hữu - Vận hành) là một trong những hình thức hợp đồng hợp tác công - tư (PPP) được nghiên cứu trong quá trình xây dựng chính sách chung về PPP. Theo cơ chế Hợp đồng này, nhà nước hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư thực hiện dự án, đồng thời cam kết tiêu thụ sản phẩm dịch vụ của dự án. Trên thực tế, đây là hình thức hợp đồng tương tự BOT, BTO và BT và chỉ mới được thực hiện trên cơ sở chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ đối với một số dự án xây dựng nhà máy điện và sản xuất nước sạch. Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tiếp tục nghiên cứu, đánh giá đầy đủ thực tiễn các dự án trong lĩnh vực này để có cơ sở hoàn thiện chính sách thúc đẩy các dự án thực hiện theo hình thức Hợp đồng BOO trong khuôn khổ chính sách chung về PPP.

Như vậy, khung pháp lý về các hình thức đầu tư để khuyến khích các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư phát triển ngành điện là tương đối đầy đủ, còn các cơ chế chính sách riêng về phát triển ngành điện cần được quy định theo Luật Điện lực và các văn bản dưới luật liên quan.