1. Quản lý dạy thêm, học thêm

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định số 03/2007/QĐ-BGDĐT quy định về dạy thêm, học thêm, trong đó quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện chịu trách nhiệm quản lý dạy thêm học thêm trên địa bàn. Đến nay, hầu hết các Sở Giáo dục và Đào tạo đã tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quy định về tổ chức dạy thêm, học thêm trên địa bàn, đồng thời đã ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế, hiện tượng dạy thêm, học thêm tràn lan vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả.

Để hạn chế, đi đến chấm dứt việc dạy thêm, học thêm tràn lan và thực hiện nghiêm 03/2007/QĐ-BGDĐT, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang tiến hành các giải pháp sau đây: Tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận trong nhân dân và phụ huynh học sinh; chủ động phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố chỉ đạo đề cao vai trò, trách nhiệm quản lý của Hiệu trưởng, giáo viên chủ nhiệm; mở rộng công tác giám sát của các đoàn thể ở địa phương và trong nhà trường, của Hội cha mẹ học sinh, đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm khắc, kịp thời các sai phạm; tiếp tục chỉ đạo dạy học 2 buổi/ngày đối với các trường phổ thông; chỉ đạo thực hiện hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học giáo dục phổ thông theo hướng tinh giảm; dành thời lượng để củng cố, hệ thống hóa kiến thức đã học cho học sinh, phụ đạo tại lớp đối với học sinh có năng lực yếu kém; tiếp tục chỉ đạo thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá, cải tiến các công tác thi theo chuẩn kiến thức, kỹ năng, giảm áp lực về kiểm tra, thi cử cho học sinh; tiếp tục nghiên cứu, đề xuất chế độ chính sách cải thiện đời sống của giáo viên; về lâu dài, xây dựng lộ trình thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện nội dung, chương trình, phương pháp dạy học, thi cử.

2. Về việc chuyển đổi trường mầm non bán công sang công lập ở một số địa phương; chế độ phụ cấp của giáo viên mầm non ở nơi được chuyển đổi

Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định chuyển đổi loại hình trường mầm non bán công sang công lập, đồng thời chịu trách nhiệm thực hiện đầy đủ chế độ, chính sách đối với nhà giáo trong diện chuyển đổi. Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc chuyển đổi. Giáo viên và nhân viên được tuyển dụng vào biên chế nhà nước được hưởng mọi chế độ, chính sách theo quy định hiện hành của nhà nước. Hiện nay, số lượng giáo viên mầm non ngoài công lập khá lớn (toàn quốc còn trên 77.000 người), nên một số địa phương chưa thể tuyển dụng vào biên chế ngay tất cả giáo viên thuộc diện chuyển đổi. Theo Quyết định số 60/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26/10/2011 quy định một số chính sách phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2011 - 2015 quy định giáo viên mầm non làm theo chế độ hợp đồng lao động trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập, dân lập, Nhà nước sẽ hỗ trợ ngân sách để các cơ sở giáo dục mầm non thực hiện trả lương theo thang bảng lương giáo viên mầm non, nâng lương định kỳ, thực hiện các chế độ chính sách khác như đối với giáo viên có cùng trình độ đào tạo đang làm việc tại các cơ sở giáo dục mầm non công lập. Đối với giáo viên mầm non công tác tại các cơ sở giáo dục mầm non tư thục, Nhà nước sẽ hỗ trợ chi phí bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

3. Việc triển khai các giải pháp chiến lược để phát triển hệ thống cao đẳng cộng đồng

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai nhiều hoạt động liên quan đến các trường cao đẳng cộng đồng như tổ chức tổng kết 10 năm mô hình trường cao đẳng cộng đồng Việt Nam (2000 – 2009); tổ chức Hội nghị Quốc tế về trường cao đẳng cộng đồng; Thành lập Hiệp hội các trường cao đẳng cộng đồng Việt Nam; xây dựng dự thảo Quy chế tổ chức và hoạt động của trường cao đẳng cộng đồng để thay thế Điều lệ trường cao đẳng cộng đồng năm 1999; hoàn thiện báo cáo Quy hoạch mạng lưới các trường cao đẳng, đại học giai đoạn 2011 – 2020, trong đó có hệ thống các trường cao đẳng cộng đồng. Các trường cao đẳng cộng đồng đã hình thành và phát triển, hoạt động có hiệu quả, góp phần đáp ứng linh hoạt nhu cầu học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người học và nhu cầu đào tạo nhân lực đa dạng phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương.

4. Quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm 2010-2011 đến năm học 2014-2015 và các văn bản hướng dẫn có hiệu lực được 1 năm nhưng đã phát sinh nhiều bất cập.

Trong quá trình thực hiện, Bộ Giáo dục và đào tạo đã phát hiện một số bất hợp lý của trình tự, thủ tục và hồ sơ thực hiện miễn, giảm học phí như: thủ tục xác nhanạ học sinh diện chính sách còn phức tạp, học sinh phải đi lại nhiều lần, phải vay tiền đóng học phí trước cho trường mà đến nay chưa được phòng Lai động, thương binh chi trả. Để khắc phục tình trạng trên, Bộ sẽ phối hợp với Bộ tài chính, Bộ lao động thương binh và xã hội tổ chức sơ kết 1 năm thực hiện Nghị quyết. Liên bộ sẽ tiếp thu tất cả các ý kiến phản ánh của địa phương để thống nhất sửa đổi bổ sung theo hướng cụ thể hơn về đối tượng được thụ hưởng chính sách, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh, sinh viên thuộc đối tượng hưởng chính sách miễn, giảm học phí.

5. Sinh viên sau khi tốt nghiệp, chất lượng đào tạo không đồng nhất giữa các loại hình đào tạo tại chức, từ xa ?

Luật giáo dục và các quy định về quản lý văn bằng, chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân không phân biệt giá trị sử dụng của văn bằng thuộc các hình thức đào tạo khác nhau do các cơ sở giáo dục công lập hay ngoài công lập cấp. Giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên với 3 hình thức: vừa làm vừa học, đào tạo từ xa, tự học có hướng dẫn chỉ là cách thức, phương pháp để thực hiện chương trình giáo dục đối với mỗi cấp học và trình độ đào tạo nhằm tăng cơ hội học tập, nâng cao trình độ chuyên môn cho các đối tượng người học.

Trên thực tế, chất lượng đào tạo tại mỗi cơ sở đào tạo, mỗi hình thức đào tạo là khác nhau, phụ thuộc vào trình độ đội ngũ cán bộ giảng dạy và các điều kiện đảm bảo chất lượng khác. Về vấn đề một số địa phương gần đây tuyên bố không xét tuyển cán bộ, công chức đối với sinh viên tốt nghiệp loại hình vừa làm vừa học (tại chức), từ xa, quan điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo như sau : Việc tuyển dụng cán bộ công chức phải tuân theo Luật Giáo dục, Luật Cán bộ công chức và các quy định hiện hành của Nhà nước. Không được có sự phân biệt bằng đại học công lập-ngoài công lập, chính quy-phi chính quy. Đồng thời, các cơ sở giáo dục đại học và cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục phải quan tâm hơn nữa tới vấn đề chất lượng đào tạo nói chung và chất lượng của các trường ngoài công lập, ở hình thức giáo dục phi chính quy nói riêng.

Để nâng cao chất lượng ở tất cả các loại hình đào tạo đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tập trung thực hiện một số giải pháp sau:Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quản lý hệ thống giáo dục đại học, tạo hành lang pháp lý cho giáo dục đại học phát triển; Xây dựng đề án đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục đại học nói riêng theo hướngchuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; Đổi mới mạnh mẽ quản lý Nhà nước về giáo dục đại học, đẩy mạnh phân cấp, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục đại học; Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra hoạt động liên kết đào tạo, đào tạo theo hình thức vừa làm vừa học, đào tạo từ xa, đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ; Xử lí nghiêm các trường hợp vi phạm; Chú trọng công tác kiểm định chất lượng các trường đại học, cao đẳng; Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục đại học; Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, thi kiểm tra, đánh giá; thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục;Tăng cường nguồn lực đầu tư cho giáo dục đại học; đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đại học. Thực hiện tốt các chính sách miễn giảm học phí, chính sách tín dụng sinh viên và việc cấp bù học phí được miễn giảm cho các trường; Gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và với sử dụng; đẩy mạnh đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội; Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục đại học.

6. Chất lượng giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số và giải pháp của Bộ trong thời gian tới?

Từ nhiều năm nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành tham mưu cho Đảng và Nhà nước ban hành nhiều chính sách hỗ trợ đối với vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc và chỉ đạo các địa phương thực hiện nhiều đề án, văn bản thể chế hóa chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước như: Đề án Kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008-2012, Đề án Củng cố và phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú giai đoạn 2011-2015 (Quyết định số 1640/QĐ-TTg ngày 20/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ), với mục tiêu đầu tư xây dựng ở mỗi tỉnh có ít nhất 1 trường phổ thông dân tộc nội trú cấp tỉnh và một số trường phổ thông dân tộc nội trú cấp huyện, trường phổ thông dân tộc bán trú nhằm thu hút được tất cả trẻ trong độ tuổi đến trường; Quyết định ban hành một số chính sách hỗ trợ học sinh bán trú và trường phổ thông dân tộc bán trú, các chính sách ưu tiên cho phát triển giáo dục dân tộc (Quyết định số 85/2010/QĐ-TTg ngày 21/12/2010); Nghị định số 82/2010/NĐ-CP ngày 15/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thôngvà trung tâm giáo dục thường xuyên; Quyết định số 2123/QĐ-TTg ngày 22/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người giai đoạn 2010-2015; Thực hiện công bằng trong xã hội và một số chính sách miễn, giảm học phí, cấp học bổng, cho vay đi học. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã chỉ đạo thực hiện nhiều nhóm giải pháp như tăng thời lượng dạy tiếng Việt, sử dụng tài liệu công nghệ giáo dục, dạy học song ngữ dựa trên tiếng mẹ đẻ, nhân viên hỗ trợ giáo viên, xây dựng môi trường sử dụng tiếng Việt trong dạy học và hoạt động tập thể…

Với những giải pháp trên, giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa từng bước được cải thiện: Số lượng học sinh học ở các trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú tăng lên; hầu hết các em học sinh dân tộc nội trú có phẩm chất đạo đức tốt, giữ gìn được bản sắc văn hóa của dân tộc mình, đồng thời tiếp thu các nét đẹp văn hóa,văn minh, tiên tiến thông qua các hoạt động của nhà trường; chất lượng dạy và học ở các tỉnh miền núi và dân tộc ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp nên chất lượng giáo dục chưa ngang bằng với vùng thuận lợi.Để từng bước nâng cao chất lượng giáo dục miền núi, vùng dân tộc, Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định những nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp lớn như sau:

- Nhiệm vụ trọng tâm: Phát triển giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng dân tộc, bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục; Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với học sinh dân tộc thiểu số, giáo viên công tác ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc; Nâng cao chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số.

- Một số giải pháp: Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị cho các trường phổ thông và trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú theo hướng đồng bộ, hiện đại; Thực hiện tốt chính sách ưu đãi, chính sách tín dụng sinh viên, hỗ trợ đối với học sinh, sinh viên ngườidân tộc thiểu số ở những vùng khó khăn; Tiếp tục thực hiện "3 đủ" đối với mỗi học sinh; Chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ quản lí và giáo viên đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, tăng dần tỷ lệ giáo viên người dân tộc, người địa phương; Thực hiện tốt các chế độ chính sách cho giáo viên, người học vùng dân tộc, miền núi; Có chính sách thỏađáng thu hút nhà giáo đến làm việc cở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; Chỉ đạo việc dạy tiếng dân tộc thiểu số cho cán bộ, công chức, giáo viên công tác ở vùng dân tộc thiểu số; Bảo đảm đủ nhà công vụ cho nhà giáo;Chú trọng chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá để nâng cao chất lượng dạy và học; Thực hiện có hiệu quả việc dạy học tiếng dân tộc thiểu số; Cung cấp miễn phí hoặc giảm giá sách giáo khoa, học phẩm, đồ dùng học tập cho học sinh vùng khó khăn, vùng dân tộc thiếu số và các đối tượng chính sách xã hội; Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thống nhất với Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, cùng các cơ quan hữu quan nghiên cứu đề xuất chính sách đối với giáo dục dân tộc cho phù hợp tình hình mới, trên tinh thần quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.

7. Việc thực hiện Nghị định 49/2010/NĐ-CP của Chính phủ về miễn học phí trên địa bàn tỉnh đối với các trường dân lập. Chế độ với trẻ em học mẫu giáo và học sinh, sinh viên có cha mẹ thường trú tại khu vực phường, thị trấn thuộc tỉnh vùng cao, điều kiện gia đình đặc biệt khó khăn?

Nghị định 49/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010-2011 đến năm học 2014-2015 (sau đây gọi là Nghị định 49) và Thông tư liên tịch số 29/2010/TTLT-BGDĐT-BTC-BLĐTBXH ngày 15/11/2011 của Liên tịch Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 49/2010/NĐ-CP đã có quy định về cơ chế, phương thức cấp bù học phí cho đối tượng chính sách là học sinh mầm non, học sinh phổ thông học các trường ngoài công lập, cụ thể là: Nhà nước sẽ cấp bù học phí (theo mức học phí của các trường công lập trong vùng) cho học sinh là con của người có công với nước, các đối tượng chính sách học mẫu giáo và phổ thông ngoài công lập.

Về việc xem xét bổ sung đối tượng miễn học phí là trẻ em học mẫu giáo và học sinh, sinh viên có cha mẹ thường trú tại khu vực phường, thị trấn thuộc tỉnh vùng cao như tỉnh Đăk Nông: Theo quy định tại Nghị định số 49/2010/NĐ-CP, chỉ những trẻ em học mẫu giáo và học sinh, sinh viên có cha mẹ thường trú tại các xã vùng cao mới được miễn học phí, các đối tượng còn lại thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo nếu học mẫu giáo và phổ thông thì được miễn, giảm học phí. Học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, gia đình thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo khi đi học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học được Nhà nước cho vay vốn để học theo Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên. Bộ Giáo dục và Đào tạo đang phối hợp cùng với Bộ Tài chính, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung Nghị định số 49/2010/NĐ-CP theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội khóa XII.

8. Về việc nhận nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em dưới 12 tháng tuổi tại các cơ sở giáo dục mầm non

Điều lệ trường mầm non quy định: “Tổ chức thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng đến sáu tuổi theo Chương trình giáo dục mầm non do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành; Đối với trẻ em từ ba tháng đến sáu tuổi, nếu không mắc bệnh truyền nhiễm, bệnh bẩm sinh nguy hiểm, được nhận vào các nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập”. Như vậy, về nguyên tắc, các trường, lớp mầm non phải có nghĩa vụ nhận các cháu ở các độ tuổi.

Mặt khác, mặc dù đã được quan tâm đầu tư trong mấy năm gần đây, song, theo số liệu thống kê, bậc học mầm non vẫn thiếu 26.886 phòng (tính theo quy định số lượng trẻ em/lớp của Điều lệ trường mầm non) và thiếu 22.811 giáo viên so với nhu cầu. Tại nhiều địa phương, đặc biệt là các thành phố, thị xã, nơi đông dân cư, khu công nghiệp, do khó khăn về điều kiện cơ sở vật chất, thiếu phòng học và giáo viên, nên việc thu nhận trẻ nhỏ, đặc biệt trẻ dưới 12 tháng tuổi tại các trường công lập còn nhiều hạn chế. Bên cạnh việc đẩy mạnh triển khai thực hiện Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi, Bộ sẽ phối hợp với các địa phương, nhất là các tỉnh, thành phố có khu công nghiệp, đề xuất các biện pháp về xây dựng cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên... để tiếp nhận trẻ dưới 12 tháng tuổi. Bộ Giáo dục và Đào tạo hết sức chia sẻ nhu cầu chính đáng của các bậc cha mẹ và đang tích cực tổ chức thực hiện những giải pháp để khắc phục, song vẫn chưa giải quyết ngay được vấn đề này.

Để từng bước khắc phục tình trạng trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng văn bản hướng dẫn thực hiện Quyết định số 60/2011/QĐ-TTgngày 26/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ quy định một số chính sách phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2011-2015. Trong đó, đặc biệt quan tâm trường, lớp để đón các cháu dưới 12 tháng tuổi ở các khu dân cư mới, khu công nghiệp; Tuyển dụng, hợp đồng giáo viên, nhân viên đối với các trường mầm non công lập để đáp ứng từng bước nhu cầu gửi trẻ dưới 12 tháng tuổi; Thực hiện các chế độ, chính sách đối với giáo viên mầm non làm việc theo chế độ hợp đồng lao động trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập, dân lập.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đang chỉ đạo các địa phương thực hiện Nghị định số 115/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ quy định trách nhiệm quản lý Nhà nước về giáo dục gắn với triển khai thực hiện Đề án phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2006-2015; Thực hiện Chương trình Giáo dục Mầm non mới, trong đó quy định mục tiêu, nội dung, phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ dưới 12 tháng tuổi; Chỉ đạo các Sở Giáo dục và Đào tạo tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức cho các bậc cha mẹ có con ở độ tuổi nhỏ, để các bậc phụ huynh có thể lựa chọn hình thức nuôi dạy con tại gia đình, góp phần giảm tải cho các nhà trường.

9. Về việc các lớp mầm non không có chức danh bảo mẫu

Thông tư liên tịch số 71/2007/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 28/11/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ quy định: Định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập baogồm: cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viêntrong các nhà trẻ, trường mẫu giáo và trường mầm non công lập; không bao gồm các chức danh hợp đồng quy định tại Nghị định số 68/2000/NĐ-CP ngày 17/11/2000 của Chính phủ về thực hiện chế độ hợp đồng một số loại công việc trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp.Điều 1, Nghị định số 68/2000/NĐ-CP ngày 17/11/2000 của Chính phủ quy định thực hiện chế độ hợp đồng một số loại công việc như bảo vệ, vệ sinh, công việc khác... trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp. Trên thực tế, một số địa phương vận dụng thực hiện chế độ hợp đồng theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP với người lao động để làm công việc vệ sinh, phục vụ tại cơ sở giáo dục mầm non.

Giáo dục mầm non là một loại hình giáo dục đặc biệt, là sự chuẩn bị cho trẻ thơ những tiền đề quan trọng trước khi bước vào giáo dục nhà trường. Trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã dành sự quan tâm, đầu tư và ban hành nhiều chính sách đối với giáo dục mầm non. Tuy nhiên, hiện nay, tốc độ tăng dân số cơ học ở các thành phố, đô thị lớn ngày càng nhanh cùng với sự phát triển ồ ạt của các khu công nghiệp, nên số lượng trẻ đến trường là tương đối lớn. Điều này cho thấy nhu cầu cấp bách về điều kiện chăm sóc giáo dục trẻ là rất lớn ngoài giáo viên dạy chuyên môn, cần có những người không chỉ lo chuyện ăn, uống, ngủ nghỉ của trẻ mà còn rèn kỹ năng tự phục vụ, văn hóa ăn uống, xếp hàng… trong việc phát triển nhân cách của trẻ. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang phối hợp với Bộ Nội vụ hoàn thiện dự thảo Thông tư sửa đổi Thông tư liên tịch số 71/2007/TTLT-BGĐĐT-BNV quy định định mức biên chế sự nghiệp các trường mầm non công lập, trong đó có nội dung điều chỉnh định mức biên chế cho cô nuôi (bảo mẫu) theo yêu cầu thực tế, dự kiến sẽ ban hành trong tháng 12/2011.

10. Tăng nhanh số lượng tuyển sinh đại học, cao đẳng? Biện pháp để giải quyết vấn đề này nhằm nâng cao chất lượng của việc đào tạo đại học và cao đẳng?

Năm 2011, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xác định chỉ tiêu tuyển mới là 543.000 sinh viên đại học, cao đẳng. Tại báo cáo của Chính phủ, do sử dụng số liệu thống kê sơ bộ kết quả tuyển sinh năm 2010 đạt 492.000 sinh viên, nên tỷ lệ tăng chỉ tiêu tuyển sinh năm 2011 là 11,6%. Theo số liệu thống kê chính thức kết quả tuyển sinh năm 2010 đạt 510.000 sinh viên, và như vậy, tỷ lệ tăng chỉ tiêu tuyển sinh năm 2011 là 6,47%, xấp xỉ mức 6,5% đã được Quốc hội phê duyệt. Sau 3 đợt xét tuyển theo nguyện vọng 1, nguyện vọng 2 và nguyện vọng 3, đến nay, các trường đại học, cao đẳng đang tổng hợp và báo cáo về Bộ số sinh viên thực tế nhập học. Dự kiến trong tháng 12/2011 sẽ có kết quả thực tuyển của các trường, từ đó sẽ xác được định tỷ lệ tuyển sinh năm 2011 đạt bao nhiêu % so với kế hoạch xác định ban đầu.

Để tiếp tục thực hiện đổi mới quản lý giáo dục đại học, nâng cao chất lượng công tác tuyển sinh, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang thực hiện một số giải pháp sau: Đánh giá lại tình hình lập trường và thực hiện quy hoạch đại học, cao đẳng trong giai đoạn 20101-2010 để kiến nghị đề xuất cho giai đoạn 2011-2015 và đến 2020. Điều chỉnh một số chỉ tiêu định lương (quy mô sinh viên/vạn dân, quy mô bình quân của trường đại học cao đẳng, tỷ lệ sinh viên/giảng viên theo nhóm ngành...) theo hướng đáp ứng điều kiện đảm bảo chất lượng và nâng cao đào tạo. Kết hợp kế hoạch đào tạo, trong đó có việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh với quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của cả nước, cũng như các Bộ, ngành và địa phương. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra điều kiện đảm bảo chất lượng đối với các cơ sở giáo dục đại học gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 50/2010/QH12 ngày 19/6/2010 của Quốc hội khóa XII.Kiểm tra thực hiện cam kết xây dựng trường đại học đối với các trường thành lập trong vòng 10 năm nay. Trên cơ sở đó, chấn chỉnh, xử lý hoặc kiến nghị xử lý theo hướng đáp ứng cam kết đảm bảo chất lượng của cơ sở đại học, có thể xem xét đình chỉ hoạt động đào tạo và xem xét giải thể đối với nhà trường.Chỉ đạo các cơ sở đào tạo tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường đội ngũ để nâng cao chất lượng đào tạo, tạo uy tín, thương hiệu, sức hút đối với thí sinh.

11. Về giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục ở các tỉnh miền núi.

Từ nhiều năm nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành tham mưu để Đảng và Nhà nước ban hành nhiều chính sách hỗ trợ ở vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc và chỉ đạo các địa phương thực hiện nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục như: Đề án Kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008-2012, Đề án Củng cố và phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú giai đoạn 2011-2015(Quyết định số 1640/QĐ-TTg ngày 20/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ), với mục tiêu đầu tư xây dựng ở mỗi tỉnh có ít nhất 1 trường Phổ thông dân tộc nội trú cấp tỉnh và một số trường phổ thông dân tộc nội trú cấp huyện, trường phổ thông dân tộc bán trú nhằm thu hút được tất cả trẻ trong độ tuổi đến trường; Quyết định ban hành một số chính sách hỗ trợ học sinh bán trú và trường phổ thông dân tộc bán trú, các chính sách ưu tiên cho phát triển giáo dục dân tộc(Quyết định số 85/2010/QĐ-TTg ngày 21/12/2010); Nghị định số 82/2010/NĐ-CP ngày 15/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thôngvà trung tâm giáo dục thường xuyên; Quyết định số 2123/QĐ-TTg ngày 22/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người giai đoạn 2010-2015; Thực hiện công bằng trong xã hội và một số chính sách miễn, giảm học phí, cấp học bổng, cho vay đi học.

Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã chỉ đạo nhiều nhóm giải pháp như tăng thời lượng dạy tiếng Việt, sử dụng tài liệu công nghệ giáo dục, dạy học song ngữ dựa trên tiếng mẹ đẻ, nhân viên hỗ trợ giáo viên, xây dựng môi trường sử dụng tiếng Việt trong dạy học và hoạt động tập thể…

Với những giải pháp trên, giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa từng bước phát triển: Số lượng học sinh học ở các trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú tăng lên; hầu hết các em học sinh dân tộc nội trú có phẩm chất đạo đức tốt, giữ gìn được bản sắc văn hóa của dân tộc mình, đồng thời tiếp thu các nét đẹp văn hóa ứng xử văn minh, tiên tiến thông qua các hoạt động của nhà trường; chất lượng dạy và học ở các tỉnh miền núi và dân tộc ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp nên chất lượng giáo dục chưa ngang bằng với vùng thuận lợi.Để từng bước nâng cao chất lượng giáo dục miền núi, vùng dân tộc, Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định những nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp lớn như sau:

- Nhiệm vụ trọng tâm: Phát triển giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng dân tộc, bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục; Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với học sinh dân tộc thiểu số, giáo viên công tác ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc; Nâng cao chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số.

- Một số giải pháp: Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị cho các trường phổ thông và trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú theo hướng đồng bộ, hiện đại. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi, chính sách tín dụng sinh viên, hỗ trợ đối với học sinh, sinh viên ngườidân tộc thiểu số ở những vùng khó khăn; Tiếp tục thực hiện "3 đủ" đối với mỗi học sinh. Chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ quản lí và giáo viên đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, tăng dần tỷ lệ giáo viên người dân tộc, người địa phương; Thực hiện tốt các chế độ chính sách cho giáo viên, người học vùng dân tộc, miền núi; Có chính sách thỏađáng thu hút nhà giáo đến làm việc cở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; Chỉ đạo việc dạy tiếng dân tộc thiểu số cho cán bộ, công chức, giáo viên công tác ở vùng dân tộc thiểu số; Bảo đảm đủ nhà công vụ cho nhà giáo.Chú trọng chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá để nâng cao chất lượng dạy và học; Thực hiện có hiệu quả việc dạy học tiếng dân tộc thiểu số.Cung cấp miễn phí hoặc giảm giá sách giáo khoa, học phẩm, đồ dùng học tập cho học sinh vùng khó khăn, vùng dân tộc thiếu số và các đối tượng chính sách xã hội. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thống nhất với Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, cùng các cơ quan hữu quan nghiên cứu đề xuất chính sách đối với giáo dục dân tộc cho phù hợp tình hình mới, trên tinh thần quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.