So với giai đoạn trước, nội hàm, chỉ tiêu của tiêu chí này giai đoạn 2021 – 2025 vừa tăng thêm về số lượng vừa yêu cầu cao hơn. Đó là 05 chỉ tiêu đối với xã đạt chuẩn nông thôn mới, 08 chỉ tiêu đối với xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, trong đó một số chỉ tiêu do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể.
Với sự quyết tâm, nỗ lực của cả hệ thống chính trị, người dân và cộng đồng doanh nghiệp, đến hết năm 2023, Chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh đã đạt được nhiều kết quả nổi bật: toàn tỉnh có 319 xã/411 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 83 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 12 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu, 9 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới. Bên cạnh việc cơ bản hoàn thành các công trình thiết yếu phục vụ nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống của người dân thì việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn đã đem lại tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm bình quân giai đoạn 2021 – 2023 tăng 4,76%, khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân. So với cuối năm 2020, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn tăng 8,5 triệu đồng/người/năm, đạt 40,5 triệu đồng/người/năm. Hình thức tổ chức sản xuất từng bước được đổi mới, xây dựng các mô hình sản xuất tiên tiến, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Các tiến bộ khoa học công nghệ được đưa vào sản xuất; trình độ ứng dụng cơ giới hóa được đẩy mạnh trong toàn bộ các khâu sản xuất, từ chọn giống đến chăm sóc, khai thác, thu hoạch, bảo quản, chế biến...Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được quan tâm và trở thành xu thế tất yếu. Đến nay đã có 235 sản phẩm truyền thống và đặc trưng địa phương được tác động về khoa học công nghệ, tăng năng suất, hiệu quả trên đơn vị diện tích canh tác.
Cùng với người nông dân, các chủ thể đóng vai trò quan trọng trong đổi mới tổ chức sản xuất và phát triển kinh tế nông thôn là các hợp tác xã, tổ hợp tác và doanh nghiệp có sự phát triển. Đến 31/3/2024, toàn tỉnh có 701 hợp tác xã nông nghiệp, trong đó có 466 hợp tác xã hoạt động hiệu quả; 02 Liên hiệp hợp tác xã và 349 tổ hợp tác. Các hợp tác xã, tổ hợp tác là cầu nối liên kết giữa hộ nông dân với doanh nghiệp, tham gia vào các hoạt động sản xuất từ cung ứng dịch vụ đầu vào, tổ chức sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Qua đó có thể thấy chủ thể kinh tế tập thể giữ vai trò quyết định đến sự thành bại của việc xây dựng và phát triển chuỗi giá trị. Ở địa phương nào các tổ chức kinh tế tập thể hoạt động mạnh thì ở đó việc tổ chức sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn có sự khởi sắc. Cũng theo báo cáo của cơ quan chức năng, đến nay, đã có 278 hợp tác xã, 120 tổ hợp tác và 139 trang trại có hoạt động liên kết sản xuất với các doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Tỉnh đã thu hút được 30 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, điển hình như: Công ty cổ phần Tổng Công ty vật tư nông nghiệp Nghệ An, Tập đoàn TH, Tập đoàn CP, Công ty cổ phần sữa Vinamilk, Công ty TNHH Thành Đô, Công ty TNHH KHCN Vĩnh Hòa v.v…Tỷ lệ giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản được sản xuất dưới các hình thức hợp tác và liên kết có sự tăng đều qua các năm và đến năm 2023 đạt 26,21%.
Trong những thành tựu về sản xuất nông nghiệp thời gian qua không thể không kể đến Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP). Chương trình đã thực sự khơi dậy, phát huy tiềm năng, thế mạnh, nội lực, kết tinh những nét tinh hoa đặc sắc của vùng miền, địa phương. Việc triển khai thực hiện Chương trình còn góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; hình thành được một số liên kết theo chuỗi khép kín. Đến nay, toàn tỉnh có 567 sản phẩm OCOP được công nhận 3 sao trở lên (số lượng nhiều thứ 2 toàn quốc), trong đó có 37 sản phẩm đạt 4 sao, 529 sản phẩm đạt 3 sao và 1 sản phẩm đạt 5 sao.
Trong bức tranh chung, một số địa phương nổi lên là những điểm sáng về xây dựng nông thôn mới nói chung cũng như về thực hiện tiêu chí tổ chức sản xuất và phát triển kinh tế nông thôn nói riêng. Phấn đấu trở thành huyện nông thôn mới kiểu mẫu, 18/18 xã của huyện Nam Đàn (đạt 100%) có mô hình liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản chủ lực một cách bền vững; dẫn đầu về số lượng sản phẩm OCOP toàn tỉnh với 69 sản phẩm (9 sản phẩm 4 sao, 60 sản phẩm 3 sao). Để trở thành huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao đến năm 2025 và định hướng xây dựng huyện nông thôn mới kiểu mẫu đến năm 2030, huyện Yên Thành đã trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với chế biến và tiêu thụ. Triển khai Đề án, Yên Thành ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ, đưa lại giá trị sản xuất bình quân cao gấp 2 - 3 lần so với sản xuất nông nghiệp đại trà. Toàn huyện đã có 15 vùng trồng được cấp mã số với các loại cây trồng như: dưa lưới, rau, cam, lúa; 45 trang trại chăn nuôi tập trung ứng dụng công nghệ cao; xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu cấp mã định danh cho 12.071 cơ sở chăn nuôi. Đóng vai trò “bà đỡ” cho sản xuất nông nghiệp có 45 hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân và tổ hợp tác, trong đó có những hợp tác xã tiêu biểu toàn tỉnh như Hợp tác xã Thọ Thành, Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Trung Thành, Hợp tác xã Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Văn Thành…Huyện Diễn Châu đã tiến hành chuyển đổi 420 ha đất lúa, đất màu kém hiệu quả sang trồng các loại cây có giá trị kết hợp mô hình trang trại, phát triển các loại rau màu; giá trị sản phẩm bình quân mỗi ha tăng từ 39 triệu đồng lên 120 triệu đồng. Tiêu biểu có sản phẩm rau mùi tàu của xã Diễn Thái sản xuất theo quy trình an toàn, đạt 3 sao đã và đang được tiêu thụ ở các thị trường lớn trong nước và xuất khẩu sang Hàn Quốc.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được thì nhìn chung việc thực hiện tiêu chí thứ 13 trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới vẫn là nhiệm vụ khó khăn đối với các địa phương. Với xuất phát điểm thấp, tình hình kinh tế vùng nông thôn, nhất là các huyện miền núi còn nhiều khó khăn. Địa bàn nông thôn rộng, nhiều nơi địa hình hiểm trở, chia cắt; cơ sở hạ tầng còn thiếu, chưa đồng bộ hoặc xuống cấp; việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và cơ giới hóa vào sản xuất còn hạn chế; các mô hình sản xuất công nghệ cao còn ít và chậm được nhân rộng. Phần lớn người dân nông thôn vẫn còn thói quen thực hiện phương thức sản xuất tự cung tự cấp, manh mún, nhỏ lẻ. Mặc dù số lượng khá lớn song các hợp tác xã nông nghiệp hoạt động hiệu quả chưa nhiều, đa phần quy mô nhỏ, khả năng cạnh tranh yếu, nguồn vốn hạn hẹp; việc tiếp cận chính sách tín dụng, đất đai còn nhiều trở ngại; bộ máy quản lý còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu.
Trong điều kiện nội tại chưa nhiều thuận lợi, việc thu hút đầu tư từ bên ngoài cũng còn khó khăn. Hiệu quả đầu tư sản xuất nông nghiệp có tính rủi ro cao bởi tác động từ các nguyên nhân khách quan như biến động giá cả thị trường, biến đổi khí hậu, các loại sâu bệnh, dịch bệnh khiến việc thu hút đầu tư còn hạn chế. Hiện các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn chưa nhiều, chủ yếu vẫn là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chưa có chế tài đủ mạnh để đảm bảo các mối quan hệ hợp tác, liên kết giữa các bên tham gia, dẫn đến nhiều liên kết thiếu bền vững. Một số địa phương còn lúng túng trong cách thức triển khai; chưa xác định rõ và có hướng đi bài bản, chiến lược nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương cũng như năng lực của chủ thể sản xuất.
Qua hơn nửa chặng đường, Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025 đã gần về đến đích. Để hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ của giai đoạn, giữ vững thành tích là một trong những hình mẫu nông thôn mới trên cả nước, mỗi địa phương và cả hệ thống chính trị của tỉnh cần tiếp tục nỗ lực và có sự tăng tốc, bứt phá. Trước tiên cần xác định tiêu chí số 13 là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt như Chỉ thị của Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ghi rõ: “nông thôn mới là nền tảng, cơ cấu lại ngành nông nghiệp là căn bản”. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất gắn với thực hiện Chương trình OCOP và phát triển sản xuất theo hướng hàng hóa. Tuy nhiên, tuyên truyền, vận động cần gắn với các mô hình, điển hình tiên tiến, cụ thể. Đơn cử như vừa qua, bà con xã Đồng Thành, huyện Yên Thành triển khai mô hình liên kết sản xuất ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ trên 10 ha ruộng lúa của 34 hộ. Sau thời gian khá dài tuyên truyền, vận động, khi triển khai bà con phấn khởi chia sẻ nếu biết hiệu quả như thế này thì đã thực hiện từ sớm.
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ là xu hướng tất yếu để nâng cao hiệu quả, gia tăng giá trị của sản phẩm nông nghiệp. Cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kỹ thuật ngành nông, lâm, thủy sản. Tăng cường liên kết, hợp tác với các viện, trường, các địa phương phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Chú trọng việc xây dựng và phát triển thương hiệu (chỉ dẫn địa lý, tem, nhãn mác…) đối với các sản phẩm nông nghiệp, nhất là sản phẩm OCOP để tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Triển khai và phát huy hiệu quả các đề tài khoa học đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tuyển chọn: Xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm OCOP từ tri thức bản địa của các dân tộc thiểu số phục vụ xây dựng nông thôn mới vùng miền Tây Nghệ An; Nghiên cứu xây dựng mô hình thôn, bản nông thôn mới thông minh gắn với phát triển kinh tế xã hội miền Tây Nghệ An. Tích cực triển khai Chương trình chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn mới thông minh. Thực hiện kế hoạch hỗ trợ đưa hộ sản xuất nông nghiệp lên sàn thương mại điện tử, thúc đẩy phát triển kinh tế số; áp dụng mở rộng đề tài khoa học thí điểm mô hình chuyển đổi số cấp xã.
Song song với việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kỹ thuật nông nghiệp, cần nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Từng bước xã hội hóa công tác đào tạo nghề, khuyến khích doanh nghiệp tự tổ chức đào tạo nghề gắn với sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới tiêu biểu, đồng thời khuyến khích giải thể, tổ chức lại các hợp tác xã yếu kém. Triển khai có hiệu quả Luật Hợp tác xã năm 2023, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2024 trong đó đã thể chế hóa 08 nhóm chính sách theo Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, nhất là việc tiếp cận vốn, đất đai, nâng cao hiệu quả quản trị, điều hành, tạo động lực cho hợp tác xã phát triển. Ban hành, bổ sung các chính sách đặc thù để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, nhất là nông nghiệp công nghệ cao, phát triển bền vững. Tập trung nguồn lực để thực thi các chính sách đã ban hành.
Giải pháp mang tính căn cơ nữa là nâng cao trách nhiệm quản lý nhà nước; sự chủ động, tích cực phối hợp của các ngành, đoàn thể trong triển khai Chương trình, đặc biệt là việc thực hiện tiêu chí tổ chức sản xuất, phát triển kinh tế nông thôn. Chính quyền các cấp cần làm tốt vai trò định hướng phát triển, là “nhạc trưởng” điều phối, kết nối mối quan hệ liên kết, phối hợp của các chủ thể liên quan trong chuỗi sản xuất để đảm bảo sự bền vững, đem lại hiệu quả cao.
Với sự quyết tâm của người dân và cả hệ thống chính trị, bằng nhiều giải pháp vừa đồng bộ vừa trọng tâm, tin tưởng rằng việc thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, trong đó có tiêu chí số 13 về tổ chức sản xuất và phát triển kinh tế nông thôn sẽ thành công, tiếp tục đạt được nhiều thắng lợi./.