Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, đất nước đang trong cảnh “Ngàn cân treo sợi tóc”, dù bận trăm công nghìn việc nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nghĩ đến công ơn của các thương binh, liệt sĩ.

Trong “Thông báo về việc nhận con các liệt sĩ làm con nuôi”, Người viết: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền Tự do, Độc lập và Thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sĩ đó, và tôi nhận con các liệt sĩ làm con nuôi của tôi”, thể hiện sự quan tâm đặc biệt và tấm lòng nhân ái cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh với gia đình các liệt sĩ.

1956.jpg
Bác Hồ thăm và chúc Tết các đồng chí thương binh ở trường Thương binh hỏng mắt, ngày 11/2/1956 (30 Tết Nguyên đán Bính Thân). Ảnh tư liệu

Để có chế độ với các thương binh, liệt sĩ ngày 16/2/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL Quy định chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất tử sĩ. Đây được xem là văn bản pháp quy đầu tiên về chế độ, chính sách đối với thương binh, thân nhân liệt sĩ. Đồng thời, thể hiện tình thương yêu, sự quan tâm hết lòng của Đảng, Nhà nước và Bác Hồ đối với thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ.

Ngày 17/7/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư đến Ban thường trực của Ban tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc”, Người viết: “Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy…”. Đồng thời, Người vận động nhường cơm, sẻ áo giúp đỡ thương binh. Để làm gương, Bác thực hiện trước: gửi một tháng lương, tiền một bữa ăn, một chiếc áo lót lụa của chị em phụ nữ đã biếu Người... cho anh em thương, bệnh binh.

Đặc biệt, để ghi nhận những hy sinh lớn lao của đồng bào, chiến sĩ cả nước; đồng thời, thể hiện tình cảm và lòng biết ơn sâu sắc của Nhân dân đối với những người đã không tiếc máu xương, cống hiến hết mình cho Tổ quốc, tháng 6/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã Chỉ thị chọn một ngày trong năm làm ngày thương binh toàn quốc. Thực hiện chỉ thị của Người, Hội nghị trù bị gồm đại biểu các cơ quan, các ngành ở Trung ương, khu và tỉnh họp ở Đại Từ, Thái Nguyên nhất trí lấy ngày 27/7/1947 là “Ngày Thương binh toàn quốc”. Tháng 7/1955, “Ngày Thương binh toàn quốc” được đổi thành “Ngày thương binh, liệt sĩ”.

Từ đó, hàng năm cứ đến ngày 27/7, bao giờ Người cũng gửi thư thăm hỏi, động viên tới thương binh, gia đình liệt sĩ, tới các đơn vị điều dưỡng và các cán bộ phụ trách để nhắc nhở việc chăm sóc chu đáo các thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ. Cùng với những lời thăm hỏi động viên tinh thần là những món quà vật chất, khi là chiếc áo, khi là tấm khăn... Đặc biệt, Bác thường gửi trọn tháng lương của mình vào dịp này để gửi tặng thương binh và các gia đình liệt sĩ. Những bức thư chân thành và những món quà giản dị của Người là nguồn động viên tinh thần vô giá, đã khích lệ, tiếp thêm nhiều nghị lực cho các đồng chí thương binh và các gia đình liệt sĩ.

bac-ho-vieng-nghia-trang-liet-si.jpg
Bác Hồ viếng nghĩa trang liệt sĩ. Ảnh tư liệu

Mặc dù trong bộn bề công việc nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn dành thời gian để quan tâm, thăm hỏi, động viên các đồng chí thương binh ở các trại điều dưỡng, các gia đình liệt sĩ, hay đón tiếp mọi người tại nơi ở và làm việc của mình. Tháng 7/1952, Bác đến thăm trại điều dưỡng thương binh ở Hà Nội. Hôm đó, trời nóng, khi đến thăm anh chị em thương binh nặng phải nằm bất động, Bác vừa cầm chiếc quạt giấy quạt cho anh em vừa hỏi chuyện. Trên đường về, Bác rất xúc động. Khi có chiếc điều hòa nhiệt độ của các đồng chí ở Bộ Ngoại giao gửi về biếu Bác, lúc đó Bác đang ở ngôi nhà của người thợ điện trong Phủ Toàn quyền, trần thấp buổi trưa rất nóng nhưng Bác không dùng. Bác nói với đồng chí Vũ Kỳ: “Chiếc máy điều hòa nhiệt độ tốt đấy, các chú có thể đem đến cho quân y viện hoặc trại điều dưỡng thương binh. Hôm trước Bác đến thăm thấy các chú ấy ở nóng lắm. Còn Bác thì chưa cần, Bác ở thế này là được rồi”.

Đêm giao thừa năm 1956 (11/2/1956), Bác đến thăm Trường thương binh hỏng mắt Hà Nội. Bác hỏi thăm tình hình sức khỏe, cuộc sống và chúc tết anh em nhân dịp năm mới, rồi Người căn dặn: “Có Trường thương binh hỏng mắt này, các chú được học chữ, học nghề để tiếp tục phục vụ nhân dân, như vậy các chú “tàn mà không phế”, các chú tùy theo sức của mình mà học tập và công tác. Các chú phải học hết lớp 7, sau đó thích nghề gì thì tham gia”. Lời động viên của Người đã trở thành khẩu hiệu hành động, phương châm sống của các đồng chí thương binh. Đó là tình cảm chân thành, sự quan tâm sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với những người đã để lại một phần máu xương của mình để bảo vệ độc lập của Tổ quốc.

Bên cạnh đó, Người còn luôn luôn nhắc nhở Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta phải chăm lo cho thương binh, gia đình liệt sĩ xem đó là trách nhiệm, là nghĩa vụ chứ không phải là việc “làm phúc” và “bổn phận chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ”. Đồng thời, phải báo đáp cho xứng đáng “Anh em thương binh đã hy sinh một phần xương máu để giữ gìn Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, đã tận trung với nước, tận hiếu với dân. Họ đã làm tròn nhiệm vụ, họ không đòi hỏi gì cả. Song đối với những người con trung hiếu ấy, Chính phủ và đồng bào phải báo đáp thế nào cho xứng đáng?”.

Ghi nhận và tri ân sự hy sinh to lớn của các thương binh, liệt sĩ đối với quốc gia, dân tộc, tại buổi lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng (05/01/1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ và chúng ta phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ để vượt tất cả mọi khó khǎn, gian khổ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ đã chuyển lại cho chúng ta”.

Sự tri ân của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thương binh, liệt sĩ thật vô bờ bến. Trước lúc đi xa, Bác Hồ vẫn luôn canh cánh trong lòng việc đền ơn đáp nghĩa với thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ. Trong Bản Di chúc lịch sử, Người không quên căn dặn:

“Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”.

Như vậy, có thể thấy đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” trong tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh đã tiếp nối truyền thống nhân văn cao đẹp của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó đang được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta tiếp tục quan tâm thực hiện tốt, nhằm tiếp thêm ngọn lửa của tình đoàn kết và lòng yêu nước trong các thế hệ con Lạc cháu Hồng, để xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh và phát triển vững bền.

Tài liệu tham khảo:

Hồ Chí Minh Toàn tập (1995) tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.435

Hồ Chí Minh Toàn tập (1995) tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.175

Hồ Chí Minh Toàn tập (1995) tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.261

Hồ Chí Minh Toàn tập (2011) tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.401

Hồ Chí Minh Toàn tập (1995) tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.503-504