1. Cử tri các xóm: Bản Cáng, Xuân Đình, xã Châu Đình, huyện Quỳ Hợp phản ánh Tổng đội thanh niên xung phong III đã có phương án giải thể từ lâu, các hộ dân đã được bàn giao về xóm Xuân Đình quản lý, nhưng đến nay vẫn chưa bàn giao đất cho Nhân dân sử dụng và chính quyền quản lý để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ dân. Đề nghị UBND tỉnh có ý kiến nhất trí về việc giải thể Tổng đội thanh niên xung phong III, đồng thời có phương án chia đất cho nhân dân sản xuất.
UBND tỉnh trả lời:
Ngày 03/01/2023, Tỉnh đoàn Nghệ An có Công văn số 328-CV/TĐTN-TCKT báo cáo công tác giải thể Tổng đội thanh niên xung phong III, theo đó thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh tại Công văn số 8569/UBND-KT ngày 05/11/2021 về việc thực hiện phương án giải thể Tổng đội thanh niên xung phong III đến nay có 02 nội dung đã hoàn thành và 05 nội dung chưa hoàn thành. Do đó, sau khi hoàn tất thủ tục giải thể Tổng đội thanh niên xung phong III, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường tham mưu thu hồi đất của Tổng đội thanh niên xung phong III để bàn giao cho địa phương quản lý làm cơ sở lập phương án giao đất cho các hộ gia đình, cá nhân theo quy định.
2. Cử tri các bản Na Noong, Pòng, Công, xã Châu Hồng, huyện Quỳ Hợp phản ánh đất rừng phòng hộ do Ban Quản lý khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống cho một số hộ thuê đất để trồng keo nguyên liệu tại khu vực Nắm Lạt, Bản Hy thuộc tiểu khu 283 không đúng quy định. Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo Ban Quản lý khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống sớm giao lại đất để nhân dân sản xuất, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo.
UBND tỉnh trả lời:
UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 4042/QĐ-UBND ngày 12/11/2020 về việc sáp nhập BQL rừng phòng hộ Quỳ Hợp vào BQL Khu BTTN Pù Huống; theo đó, toàn bộ diện tích của BQL rừng phòng hộ Quỳ Hợp quản lý trước đây chuyển về BQL Khu BTTN Pù Huống quản lý. Tổng diện tích đất rừng trên địa bàn xã Châu Hồng do đơn vị quản lý là 867,1 ha, Trong đó diện tích đất rừng phòng hộ là 802,9 ha, đất rừng sản xuất là 64,2 ha. Diện tích đất tại khu vực Nắm Lát, Bản Hy thuộc tiểu khu 283 hiện nay tại khoảnh 5 đơn vị đang triển khai thực hiện dự án trồng rừng sản xuất với diện tích 40 ha. Căn cứ hồ sơ thiết kế kỹ thuật phê duyệt, BQL rừng phòng hộ Quỳ Hợp giao khoán cho 08 cán bộ bảo vệ rừng thuộc diện 2B (tự trang trải, không hưởng lương từ ngân sách nhà nước) và 01 hộ dân xã Châu Hồng nhận khoán trồng rừng, diện tích này hiện nay là rừng trồng Keo đang được quản lý bảo vệ tốt.
Tại khoảnh 4, tiểu khu 283 quy hoạch là đất rừng sản xuất, năm 2009 BQL rừng phòng hộ Quỳ Hợp có triển khai thực hiện trồng rừng sản xuất với diện tích 20 ha giao khoán cho 06 hộ dân trong đó có 01 hộ dân trên địa bàn xã Châu Hồng thực hiện trồng rừng Keo, sau 04 năm có 01 hộ trồng thành rừng Keo (hộ ông Nguyễn Văn Xuyên), còn lại 05 hộ trồng không thành rừng. Để thực hiện tốt công tác phủ xanh đất trống và đảm bảo mục tiêu trồng thành rừng, năm 2015 đơn vị giao khoán diện tích đất này cho gia đình ông Nguyễn Văn Phượng thường trú tại Bản Hy, xã Châu Hồng với diện tích là 12 ha vào mục đích trồng rừng Keo thì có hiệu quả và đảm bảo mục tiêu trồng rừng.
Năm 2020, hộ gia đình ông Nguyễn Văn Phượng tiếp tục có đơn xin trồng rừng sản xuất trên diện tích mà hộ gia đình đã nhận khoán trồng rừng có hiệu quả trước đó, BQL rừng phòng hộ Quỳ Hợp (trước khi sáp nhập) đã căn cứ vào khoản 2, Điều 5, Nghị định số 168/2016/NĐ-CP ngày 27/12/2016 của Chính phủ quy định về khoán rừng, vườn cây và diện tích mặt nước trong các BQL rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và Công ty TNHH MTV nông, lâm nghiệp nhà nước để khoản ổn định chu kỳ cây trồng lại cho ông Nguyễn Văn Phượng để trồng lại Keo trên diện tích 12 ha đã trồng rừng có hiệu quả ở chu kỳ trước.
Căn cứ các nội dung trên, BQL Khu BTTN Pù Huống không cho thuê đất đất rừng phòng hộ mà đang thực hiện giao khoán trồng rừng sản xuất trên diện tích đất rừng sản xuất của Nhà nước giao cho BQL Khu BTTN Pù Huống quản lý theo quy định tại Nghị định số 168/2016/NĐ-CP ngày 27/12/2016 của Chính phủ quy định về khoán rừng, vườn cây và diện tích mặt nước trong các BQL rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và Công ty TNHH MTV nông, lâm nghiệp Nhà nước và thuộc dự án trong mới 5 triệu ha rừng (Dự án 661) đã được phê duyệt trước đây. Hiện nay, theo báo cáo của BQL Khu BTTN Pù Huống thì đơn vị đang quản lý sử dụng đất rừng sản xuất nói trên đúng quy định, đúng đối tượng giao khoán và thực tế hiện nay diện tích đất giao khoán cho người dân để trồng rừng sản xuất đang có hiệu quả.
Vì vậy, việc cử tri các bản Na Noong, Pòng, Công, xã Châu Hồng, huyện Qùy Hợp phản ảnh đất rừng phòng hộ do BQL Khu BTTN cho một số hộ thuê đất để trồng keo nguyên liệu tại khu vực Nắm Lát, Bản Hy thuộc tiểu khu 283 không đúng quy định là chưa có cơ sở. Hiện nay, BQL Khu BTTN Pù Huống chưa có kiến nghị trả lại diện tích đất nêu trên cho địa phương. Do đó, chưa đủ căn cứ để Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tham mưu UBND tỉnh thu hồi diện tích đất nêu trên để giao lại cho người dân theo kiến nghị của cử tri.
3. Cử tri Võ Thị Hải Văn, trú tại bản Cáng, xã Châu Đình, huyện Quỳ Hợp phản ánh đất đang tranh chấp giữa nhân dân bản Cáng và nhân dân xóm Bù Sành do liên quan đến Lâm trường Quỳ Hợp trước đây đã thu hồi diện tích đất sản xuất của nhân dân Bản Cáng, thuộc tiểu khu 305 để trồng rừng theo dự án 327 cho đến nay chưa giao lại đất cho xã Châu Đình. Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo Lâm Trường Quỳ Hợp trả lại diện tích đất cho xã Châu Đình quản lý.
UBND tỉnh trả lời:
- Chương trình dự án 327 trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc, được nhà nước bắt đầu thực hiện từ năm 1993 đến năm 1998 chuyển sang dự án 661.
- Năm 1997 và năm 1998, Lâm trường Quỳ Hợp ký hợp đồng trồng rừng dự án 327 với một số hộ dân xóm Thái Lâm, xã Châu Thái tại tiểu khu 305 thuộc địa giới hành chính xã Châu Đình.
- Đến năm 2007, tiến hành thiết kế khai thác, với phương thức hộ nhận khoán trồng rừng được hưởng 2/3 sản phẩm (tương đương 66,6%) theo quy định của nhà nước, phần còn lại nhà nước hưởng. Sau khi khai thác và các bên hưởng lợi xong, Lâm trường Quỷ Hợp đã thanh lý hợp đồng, không ký lại hợp đồng với các hộ nhận khoán nữa vì phần đất ở tiểu khu 305 không thuộc đất Lâm trường Quỷ Hợp quản lý.
Việc cử tri xóm Bản Cáng, xã Châu Đình cho rằng “Lâm trường Quỳ Hợp thu hồi một số diện tích đất của người dân Bản Cáng để thực hiện dự án, sau đó giao lại đất cho xóm Thái Lâm, xã Châu Thái" là không có cơ sở. Bởi vì, đất để thực hiện dự án 327 tại tiểu khu 305 xã Châu Đình thuộc đất địa phương quản lý nên Lâm trường không có thẩm quyền thu hồi và bàn giao, mà chỉ thực hiện ký kết hợp đồng trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc tại thời điểm có dự án theo nguyện vọng của một số hộ dân vào năm 1997 và năm 1998. Sau khi Lâm trường thanh lý hợp đồng vào năm 2007 đến nay thì diện tích đất này do địa phương quản lý.
4. Các cử tri thuộc Ủy ban Nhân dân huyện Quỳ Hợp phản ánh hàng năm các xã, thị trấn thành lập đoàn vận động viên tham gia thi đấu các giải thể thao quần chúng theo kế hoạch của UBND huyện và đã thực hiện chi trả chế độ dĩnh dưỡng cho đoàn vận động viện và huấn luyện viên của xã nhưng lại không thanh toán được. Lý do Kho bạc Nhà nước đưa ra: không có văn bản qui định về chế độ cho vận động viên và huấn luyện viên cấp xã. Bên cạnh đó, mức chi hỗ trợ trong quá trình tổ chức cho thành viên Ban chỉ đạo, Ban Tổ chức và các Tiểu ban các Giải thể thao, trọng tài, giám sát điều hành, thư ký các giải thi đấu trong giải thể thao cấp xã cũng không có văn bản quy định. Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo có hướng dẫn thực hiện.
UBND tỉnh trả lời:
Hiện nay, Sở Văn hóa và Thể thao đang tiến hành khảo sát khả năng bố trí kinh phí cho hoạt động thể dục thể thao của cấp xã trên toàn tỉnh về nội dung và mức chi 2 chế độ trên để trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Đồng thời, kiến nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan điều chỉnh định mức tại Thông tư số 200/2011/TTLT-BTC-BVHTTDL ngày 30/12/2011 của Liên Bộ Tài chính - Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho phù hợp với thực tế hiện nay (mức lương tối thiểu năm 2011 là 830.000 đ/tháng và năm 2022 là 1.490.000 đ/tháng).
5. Cử tri xã Nghĩa Xuân, huyện Quỳ hợp kiến nghị UBND tỉnh có ý kiến với Tổng Công ty điện lực miền Bắc giải quyết dứt điểm việc hoàn trả đường dây điện 04 của xã để trả lại cho nhân dân với số tiền là 402.857.000đ.
UBND tỉnh trả lời:
Năm 2018, UBND xã Nghĩa Xuân đã lập hồ sơ hoàn trả gửi Công ty Điện lực Nghệ An. Công ty Điện lực Nghệ An đã trình Tổng công ty điện lực miền Bắc nhưng hồ sơ chưa đảm bảo theo quy định nên không được phê duyệt.
UBND xã Nghĩa Xuân đã hoàn thiện hồ sơ gửi Công ty Điện lực Nghệ An trình Tổng công ty Điện lực miền Bắc quyết định. Hiện nay, thủ tục đã cơ bản hoàn thành và dự kiến thực hiện hoàn trả trong quý II/2023.
6. Cử tri xóm Bãi Kè, xã Đồng Hợp, huyện Quỳ Hợp phản ánh UBND tỉnh đã có quyết định thu hồi đất của lâm trường để giao cho nhân dân sản xuất, tuy nhiên diện tích đất Lâm trường Quỳ Hợp trả là những khu vực không sản xuất được và diện tích trên địa bàn xóm Bãi Kè rất ít, một phần do chồng lấn đất ở của người dân. Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo thu hồi một số diện tích đất liền kề, tạo điều kiện cho nhân dân có đất sản xuất, ổn định cuộc sống, tránh tình trạng khiếu kiện kéo dài.
UBND tỉnh trả lời:
6.1. Về nội dung “Diện tích đất thu hồi của Lâm trường Đồng Hợp chủ yếu là những khu vực không sản xuất được”
Đất của Lâm trường Đông Hợp đang quản lý, sử dụng có nguồn gốc là đất quy hoạch Khu kinh tế lâm nghiệp và công nghiệp Sông Hiếu theo Quyết định số 31/CP ngày 08/3/1965 của Hội đồng Chính phủ với diện tích quy hoạch 351.544 ha. Năm 1989, Bộ Lâm nghiệp thành lập Lâm trường Đồng Hợp trực thuộc Liên hiệp Lâm công nghiệp Sông Hiếu (nay là Công ty TNHH một thành viên Lâm nông nghiệp Sông Hiêu), diện tích rừng và đất lâm nghiệp giao cho Lâm trường Đồng Hợp là 10.144 ha. Năm 2003, UBND tỉnh đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Lâm trường Đồng Hợp tại các xã với tổng diện tích là 5.325,2 ha. Trên thực tế có một phần diện tích đã được các xã và nhân dân quản lý, sử dụng ổn định (trong đó có nhân dân xã Tam Hợp) nên UBND tỉnh đã ban hành 09 quyết định thu hồi đất của Lâm trường Đồng Hợp giao cho UBND huyện Quỳ Hợp, UBND các xã quản lý và để giao cho nhân dân sử dụng với tổng diện tích là 2.727,2 ha. Số liệu diện tích bàn giao cho địa phương quản lý tại khu vực xóm Bãi Kè, xã Đồng Hợp cụ thể như sau:
- Năm 2004: Diện tích thu hồi tại xã Đồng Hợp 41,0 ha; đã có 13 hộ được cấp GCN QSD đất ở; đất sản xuất nông nghiệp và đất rừng sản xuất chưa được cấp GCN QSD đất do số liệu đo đạc các hộ dân lệch so với hiện trạng sử dụng.
- Năm 2007: thu hồi 45,73 ha; toàn bộ diện tích đất thu hồi trả về địa phương quản lý thuộc xóm Bãi Kè, xã Đồng Hợp, huyện Quỳ Hợp; giao cho 73 hộ dân xóm Bãi Kè và 15 hộ dân xóm Hợp Thành.
- Năm 2012: Diện tích thu hồi tại xã Đồng Hợp là 89,95 ha,; toàn bộ diện tích đất thu hồi trả về địa phương quản lý thuộc 07 xóm: Khe Mèn, Đồng Cạn, Đồng Sòng, Hợp Thuận, Hợp Liên, Hợp Long, Bãi Kè.
- Năm 2018: Diện tích thu hồi tại xã Đồng Hợp 156,16 ha; toàn bộ diện tích đất thu hồi trả về địa phương quản lý thuộc 08 xóm: Khe Mèn, Đồng Cạn, Đồng Ban, Đồng Sòng, Hợp Thuận, Hợp Liên, Hợp Long và Bãi Kè.
- Năm 2019: Diện tích thu hồi tại xã Đồng Hợp 48,00 ha; toàn bộ diện tích đất thu hồi trả về địa phương quản lý thuộc xóm Bãi Kè và khu vực nghĩa địa xóm Khoai Chuối; tuy nhiên, diện tích trả về cho địa phương có thể sản xuất được đã bị các cá nhân, gia đình chiếm từ cuối năm 2019. UBND tỉnh đã có Thông báo số 553/TB-UBND ngày 04/10/2021 về kết luận của Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hoàng Nghĩa Hiếu về chỉ đạo giải quyết một số vướng mắc trong việc tranh chấp đất liên quan đến Lâm trường Đồng Hợp. Hiện nay, UBND huyện Quỳ Hợp đang triển khai kiểm tra, xác minh các cá nhân chiếm đất, vị trí, diện tích chiếm đất và tiến hành các thủ tục xử lý vi phạm, thu hồi diện tích đất mà các hộ gia đình, cá nhân tự ý chiếm dụng để thực hiện phương án giao đất cho các hộ gia đình cá nhân sử dụng theo quy định của pháp luật.
Do vậy ý kiến cho rằng diện tích đất trả về địa phương không sản xuất được là không đúng thực tế.
6.2. Về nội dung: Hiện nay Lâm trường Đồng Hợp quản lý diện tích đất lớn, đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo thu hồi một số diện tích đất liền kề, tạo điều kiện cho nhân dân có đất sản xuất
Hiện nay, Lâm trường Đồng Hợp đang quản lý diện tích đất là 2.476,9 ha, bao gồm bao gồm diện tích được giao là 1.339,08 ha (Rừng tự nhiên, giao thông, khe suối) và diện tích cho thuê là 1.137,81 ha để sản xuất kinh doanh, trong đó rừng trồng liên doanh hộ dân là 442 ha, rừng trồng Lâm trường là 695,8 ha, chỉ chiếm 61% diện tích đất được sản xuất, phân bổ tại địa bàn 4 xã, bình quân mỗi xã có đất Lâm trường sản xuất chỉ là 173,95 ha.
Năm 2016, Lâm trường Đồng Hợp đã phối hợp với UBND các xã có liên quan rà soát, cắm mốc ranh giới và lập phương án sử dụng đất theo Nghị định số 118/2014/NĐ-CP ngày 17/12/2014 của Chính phủ, theo đó đối với phần diện tích phải trả về địa phương, Lâm trường đã có Văn bản trả đất và UBND tỉnh đã thu hồi đất theo quy định. Phần diện tích còn lại, Lâm trường đã phối hợp với chính quyền địa phương, các hộ dân liền kề, đơn vị tư vấn lập phương án sử dụng đất, cắm mốc ranh giới và được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Công ty TNHH MTV Lâm nông nghiệp Sông Hiếu đang quản lý, sử dụng ổn định; do đó, việc đề xuất thu hồi phần diện tích này là không có cơ sở để thực hiện.
Ngày 18/01/2023, UBND tỉnh có Công văn số 414/UBND-BTD giao Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường và các ngành, địa phương có liên quan tổ chức rà soát, đánh giá toàn diện, tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo giải quyết các vụ việc tranh chấp, khiếu nại về đất đai theo đúng quy định của pháp luật. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có Báo cáo số 162/SNN-TTr ngày 27/4/2023 về tình hình tranh chấp, khiếu kiện đất đai liên quan đến các công ty nông lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Hiện nay, Văn phòng UBND tỉnh đang phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tham mưu UBND tỉnh xem xét, quyết định.
7. Cử tri xã Châu Quang, huyện Quỳ Hợp kiến nghị việc mở rộng và đắp lề tuyến Quốc lộ 48D đoạn cua đường hẹp hai bên là ruộng lúa sâu; từ Km 108 + 200 - Km 108 + 400 không có lề đường gây mất an toàn giao thông; đặc biệt đoạn từ Km 107 + 700 - Km 108 thường bị ngập úng vào mùa mưa. Đề nghị nâng cao đường hoặc mở rộng cống thoát nước để đảm bảo an toàn cho người tham gia giao thông.
UBND tỉnh trả lời:
+ Đối với đoạn từ Km108+200-Km108+400 QL48D: Sau khi kiểm tra thực tế hiện trường, tuyến Quốc lộ 48D đoạn Km108+200-Km108+400 đi qua địa bàn xã Châu Quang, huyện Quỳ Hợp, có quy mô đường cấp V miền núi (TCVN4054-2005); chiều rộng nền đường B nền 6,50m, chiều rộng mặt đường Bmặt = 5,5m, lề đường rộng 0,5mx2. Năm 2021, đoạn tuyến cử tri kiến nghị đã được Cục Đường bộ Việt Nam cho phép sửa chữa nền, mặt đường, hệ thống thoát nước và ATGT trên đoạn từ Km107+00 – Km110+00 với tổng mức 6,4 tỷ đồng. Việc đầu tư sửa chữa nền, mặt đường là đảm bảo các tiêu chuẩn về cấp đường quản lý, an toàn giao thông và không phải dự án nâng cấp, mở rộng nền đường. Do vậy, việc mở rộng nền mặt đường đến nay chưa được thực hiện và đoạn tuyến cử tri phản ánh so với bình diện tuyến các đoạn liền kề thì nền đường hiện tại có hẹp hơn. Thời gian qua, Sở Giao thông vận tải đã thường xuyên chỉ đạo đơn vị quản lý đường bộ tăng cường công tác bảo dưỡng thường xuyên trên tuyến, bổ sung các biển cảnh báo để đảm bảo đi lại thuận lợi an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông.
UBND tỉnh chỉ đạo Sở Giao thông vận tải tiếp tục tăng cường chỉ đạo công tác quản lý, bảo trì tuyến QL.48D nói chung và các đoạn tuyến quan địa bàn xã Châu Quang nói riêng để đảm bảo an toàn cho người tham gia giao thông. Đồng thời, nghiên cứu, xem xét báo cáo Cục Đường bộ Việt Nam, Bộ Giao thông vận tải đầu tư nâng cấp, mở rộng tuyến QL.48D khi đảm bảo điều kiện về nguồn lực.
+ Đối với đoạn từ Km107+700 – Km108: Trong những năm gần đây, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, tốc độ đô thị hóa và nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phương nên vào những đợt mưa lớn kèo dài đã xảy ra tình trạng hai bên tuyến bị ngập nước, gây ùn ứ hạ lưu rãnh dọc dẫn đến ngập cục bộ rãnh dọc phía bên phải tuyến (tại Km107+730 dài khoảng 40m với chiều sâu ngập từ 15-20cm, rộng khoảng 1/2 mặt đường) như cử tri phản ánh. Trước thực trạng đó, Năm 2020, Sở Giao thông vận tải đã đề xuất và được Tổng Cục Đường bộ Việt Nam (Nay là Cục Đường bộ Việt Nam) cho phép đầu tư sửa chữa nền, mặt đường và hệ thống rãnh dọc thoát nước trên đoạn tuyến. Tuy nhiên, việc xử lý tình trạng ngập nước tại vị trí nêu trên vẫn chưa triệt để nhất là khi xảy ra các đợt mưa lớn kéo dài. Để từng bước khắc phục tình trạng trên, UBND tỉnh chỉ đạo Sở Giao thông vận tải thường xuyên kiểm tra, nạo vét rãnh dọc đảm bảo phát huy hiệu quả, thực hiện các biện pháp đảm bảo giao thông trong thời gian đoạn rãnh bị ngập. Đồng thời, phối hợp với chính quyền địa phương kiểm tra thực tế, nghiên cứu các giải pháp thoát nước để đề xuất Cục Đường bộ Việt Nam xem xét, đầu tư trong thời gian sớm nhất.
8. Cử tri xã Đồng Hợp, huyện Quỳ Hợp phản ánh hiện nay chế độ phụ cấp cho y tá thôn bản rất thấp, trong khi đó thực hiện công tác phòng chống dịch bệnh phải tham gia không kể ngày, đêm. Đề nghị tăng phụ cấp cho các đối tượng trên.
UBND tỉnh trả lời:
Để nâng cao mức phụ cấp cho đội ngũ nhân viên y tế và cộng tác viên dân số đồng thời đảm bảo có người phụ trách công tác y tế tại khối, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 15/2020/NQ-HĐND ngày 13/11/2020 Quy định một số chính sách về công tác dân số trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Theo đó, cộng tác viên dân số khối thuộc phường, thị trấn kiêm nhiệm công tác y tế được hưởng mức phụ cấp hàng tháng bằng 0,35 lần mức lương cơ sở và được hỗ trợ thêm 150.000đ/tháng; nhân viên y tế xóm, bản kiêm nhiệm công tác dân số tại các xã thuộc vùng khó khăn theo quy định của Nhà nước được hưởng mức hỗ trợ 0,55 mức lương cơ sở và hỗ trợ thêm 150.000đ/tháng; nhân viên y tế xóm, bản kiêm nhiệm công tác dân số tại các xã còn lại được hưởng mức hỗ trợ 0,35 mức lương cơ sở và hỗ trợ thêm 150.000đ/tháng. Như vậy, sau khi ban hành Nghị quyết, mức phụ cấp cho đội ngũ nhân viên y tế và cộng tác viên dân số đã được nâng lên so với trước đây.
Đối với phụ cấp của đội ngũ nhân viên y tế xóm, bản phụ thuộc vào quy định của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg nên việc nâng cao hơn nữa mức phụ cấp của đội ngũ này phải chờ thay đổi các quy định của Trung ương.