CÁI “GÀN” CỦA NGƯỜI NGHỆ

Hoàng Trung Thông sinh ra trong một gia đình Nho học tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, ngôi làng khoa bảng nổi tiếng của Xứ Nghệ. Từ ngày nhỏ, ông đã được biết đến như một thần đồng Hán học. Năm 12 tuổi, ông đỗ trường Quốc học Vinh và sớm tham gia hoạt động cách mạng trong tổ chức Việt Minh từ khi đang ngồi trên ghế nhà trường. Ông đã có những tháng ngày hoạt động cách mạng sôi nổi ở quê hương trong vai trò là ủy viên Thường vụ Thanh niên Cứu quốc xã Quỳnh Đôi, Thường vụ Thanh niên Cứu quốc huyện nhà, chính trị viên huyện đội, thành viên trong Ban Chấp hành Thanh niên Cứu quốc tỉnh Nghệ An.

Nhà thơ Hoàng Trung Thông (1925-1993). Ảnh: TL

Hoàng Trung Thông được biết đến là người có nhiều kinh nghiệm về tổ chức quản lý, từng là Trưởng ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ Nghệ An; sau này, khi hoạt động ở lĩnh vực văn nghệ, ông được giao đảm nhận nhiều cương vị quan trọng như: Khu uỷ Liên khu IV, Tỉnh uỷ viên Tỉnh uỷ Nghệ An, Uỷ viên Tiểu ban Văn nghệ Trung ương; Thư ký toà soạn Tạp chí Văn nghệ thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam, Tổng Biên tập Tuần báo Văn nghệ; Vụ trưởng Vụ Văn nghệ - Ban Tuyên giáo Trung ương, Giám đốc Nhà xuất bản Văn học, Uỷ viên Thường vụ - Uỷ viên Đảng đoàn Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam (khoá II), Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khoá III), Viện trưởng Viện Văn học, Tổng Biên tập Tạp chí Văn học,...

Nói về chất Nghệ của con người Hoàng Trung Thông cũng là nói về nét “gàn” thật riêng biệt. Ông về làm Viện trưởng Viện Văn học từ năm 1975 đến năm 1985. Tính ông xuề xoà, người ta ít khi thấy vị viện trưởng đạo mạo nghiên cứu tài liệu trong văn phòng mà thường thấy ông thân mật làm việc, chuyện trò rôm rả tại các phòng chuyên môn. Với nét đôn hậu, ông chăm lo đời sống cho anh chị em trong Viện như người nhà. Viện không có xe, chỉ một bài thơ gửi lên cho nhà thơ Tố Hữu, một thời gian ngắn sau, Viện Văn học đã được nhận chiếc xe Lada láng bóng. Thế nhưng, hằng ngày, Hoàng Trung Thông vẫn chậm rãi đi bộ từ phố Ngô Quyền đến trụ sở và ngược lại. Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, trong bài “Đi tìm con người Hoàng Trung Thông” đã kể lại câu chuyện về cái tết năm 1984. Khi đó, “Bạn Nguyễn Hữu Sơn được cử về Hà Nam Ninh tìm một con lợn với giá phải chăng do một Hợp tác xã nhượng lại. Lợn được bỏ lên xe Lada chở về trong sự hân hoan chờ đón của mọi người. Khi xe chở lợn về đến nơi, anh em mở cửa ra, có vài người nói to lên: “Kính chào thủ trưởng lợn. Xin mời thủ trưởng xuống để chúng em còn đi đón thủ trưởng Thông”. Chuyện đến bây giờ kể lại thì như chuyện trạng, để thấy không khí bình đẳng, dân chủ mà vị Viện trưởng đã tạo ra và quý hơn một tấm lòng thanh cao, không vụ lợi.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lưu Khánh Thơ, cán bộ dưới quyền ông ở Viện Văn học kể lại: “Năm 1975, nhà thơ Hoàng Trung Thông về đảm nhận chức vụ Viện trưởng Viện Văn học theo lời mời của Giáo sư Đặng Thai Mai. Trái với tư thế nghiêm nghị, mực thước của vị Viện trưởng tiền nhiệm, nhà thơ Hoàng Trung Thông có tác phong giản dị gần gũi của một cán bộ quần chúng và sự phóng khoáng, thoải mái của người nghệ sĩ, nên các lớp cán bộ trẻ rất quý ông. Ông ghé vào đâu, anh em đều có thể thoải mái nói chuyện hàng giờ với ông. Gặp ngoài đường, có thể cùng nhau tạt vào một quán nước chè, muốn bàn gì với ông cũng nhanh và tiện. Những lúc tỉnh táo, ông nói chuyện hấp dẫn, dí dỏm với những ý kiến sâu sắc, uyên bác về văn học”.

Năm 1980, Nhà nước có chủ trương phong học hàm Giáo sư cho các chuyên gia nghiên cứu ở các Viện. Cả Viện Văn học nhất trí bầu cho ông, thế nhưng, Hoàng Trung Thông lại từ chối vinh dự đó một cách nhẹ bẫng: “Tôi là nhà thơ. Thế đủ rồi. Còn giáo sư gì nữa”. Cả một đời ông sống thanh bạch, nghèo khổ, hầu như chỉ dựa vào đồng lương, vậy mà ông vẫn day dứt, áy náy vì mức lương của mình cao hơn quá nhiều so với mức lương của các Trưởng ban chuyên môn, trong khi trách nhiệm của các Trưởng ban là rất nặng.

Nhà thơ Hoàng Trung Thông (ngoài cùng bên phải) cùng nhà văn Nguyễn Tuân và Nguyễn Công Hoan

Con trai út của ông, họa sĩ Hoàng Phượng Vỹ, sau khi tốt nghiệp Đại học Kiến trúc Hà Nội, đã trải qua thời gian lao động kiếm sống như một công nhân thực thụ, bốc gạch bằng chính bàn tay trần không bảo hộ. Lúc đó, với cương vị là Viện trưởng Viện Văn học, dựa vào các mối quan hệ của mình, Hoàng Trung Thông hoàn toàn có thể tìm cho con trai mình một công việc ổn định, nhưng ông đã không làm thế. Khí tiết người Nghệ, tấm lòng trong sáng của một người đứng đầu ngành văn học, đã giữ nếp sống thanh cao ấy đến những phút giây cuối cùng. “Nếu tôi chết/ Đắp điếm ngôi mộ tôi/ Và anh hay chị sẽ viết/ Giữ lòng trong suốt đời”. Đó cũng là lý tưởng sống của những kẻ sĩ xứ Nghệ, bần hàn nhưng thanh thản, không tục lụy bất kỳ ai, một đời giữ nhân cách như cây tùng, cây bách giữa trời.

MỐI LƯƠNG DUYÊN VỚI NGƯỜI VỢ TÀO KHANG

Chuyện tình giữa Hoàng Trung Thông và bà Hồ Thị Hoa cũng thật đặc biệt. Ngày ấy, Hoàng Trung Thông vốn là con trai của tú tài Hoàng Trung Quát. Còn bà Hồ Thị Hoa cũng sinh ra trong gia đình danh giá của làng Quỳnh: cháu ngoại quan Thượng thư Thượng thư Hồ Trọng Đĩnh, cháu nội ông quan Nghè. Bà cũng được dạy dỗ chu đáo, có tiếng nhan sắc và nữ công gia chánh trong vùng. Hai gia đình hứa gả con cho nhau và đám cưới đã diễn ra đúng vào năm 1945 - Cách mạng Tháng Tám thành công, có mặt đầy đủ quan viên hai họ, song vắng mặt chú rể do đang đi học xa nhà. Một năm sau, tốt nghiệp trường Quốc học Vinh, chàng trai mới bất ngờ hay tin mình đã có vợ. Đêm tân hôn cũng là lần đầu tiên họ gặp nhau, chú rể hỏi cô dâu: “Đằng ấy năm nay bao nhiêu tuổi?/ Em tròn 16/ Tui tưởng đằng nớ phải nhiều tuổi rồi, vì lúc trước, cha mẹ toàn dạm cho tui các đám hơn tui vài ba tuổi, để lo liệu việc nhà…”. Cuộc hôn nhân của họ đã bắt đầu như thế. Ông trời xe tơ để hai tâm hồn ấy được gặp gỡ, chia sẻ và nương tựa vào nhau, đồng hành cùng nhau trên con đường khó khăn nhưng đầy hạnh phúc.

... Kháng chiến bùng nổ, Hoàng Trung Thông được điều ra Hà Nội, sau đó là những ngày tháng đi kháng chiến, rồi trở về Thủ đô nhận công tác (1954). Hai năm sau, ông mới đón mẹ, vợ và các con ra đoàn tụ. Căn gác nhỏ tầng 2 ở số 70 Ngô Quyền là nơi sinh sống của gia đình họ. Dù từng giữ nhiều chức vụ quan trọng, thế nhưng cuộc sống của gia đình nhà thơ vẫn rất kham khổ. Bà Hồ Thị Hoa phải bươn chải, làm thuê đủ việc để nuôi năm người con ăn học trưởng thành. Kiến trúc sư - họa sĩ Hoàng Phượng Vỹ kể lại, hằng đêm mẹ mình phải xếp hàng hứng nước rồi xách lên gác 2 phục vụ cho sinh hoạt của cả nhà. Đặc biệt, dù cuộc sống khó khăn nhưng bà rất chiều chồng, ngay cả với thói quen uống rượu. Biết là có hại cho sức khỏe, biết cơ thể ông có nhiều bệnh, thế mà ở nhà, bà chăm lo, ngâm nhiều loại rượu quý. Những lần ông uống rượu say ở Trúc viên thi quán, bóng dáng người phụ nữ nho nhỏ, xiêu xiêu ấy lại đến bên ông khẽ khàng, rất khẽ khàng: “Mình ơi, về ăn cơm”.

Tác phẩm của nhà thơ Hoàng Trung Thông và ảnh chụp nhà thơ Hoàng Trung Thông cùng các văn nghệ sĩ.

Dù say thơ và rượu, song Hoàng Trung Thông là người chồng thuỷ chung, hết mực yêu thương vợ. Với ông, bà là người chia ngọt sẻ bùi, hy sinh cả cuộc đời để ông được sống với chất “gàn” của mình. Cuối đời, ông đã viết tặng rất nhiều vần thơ bày tỏ tình yêu sâu nặng dành cho người vợ thảo hiền, tận tuỵ:Còn anh chơi rượu, em xuôi ngược/ Lo lắng ngày đêm không nghỉ ngơi/ Cả một đời anh chỉ một người/ Yêu anh rất mực, giận rồi cười/ Bạn bè, con cái em săn sóc/ Chỉ nói thương em dạ chẳng rời”.

CON NGƯỜI THƠ HOÀNG TRUNG THÔNG    

Năm 2013, tại Hội thảo nhân kỷ niệm 20 năm ngày mất của Hoàng Trung Thông, nói về nhà thơ - vị Viện trưởng Viện Văn học giai đoạn 1975 - 1985, Giáo sư Huệ Chi chia sẻ: “Cho đến giờ tôi vẫn chưa nắm bắt được con người thật của Hoàng Trung Thông, mặc dù tôi từng chạm vào con người ấy. Trong Hoàng Trung Thông có đến mấy con người, nhưng tôi dám quyết, con người chức vụ không phải là con người thật của ông. Hay đúng hơn, lúc đầu nó là con người thật nhưng sau nhiều năm kinh qua những cuộc đấu đá trong các phong trào từ ngoài xã hội đến văn chương, hình như thấy không hợp với tạng của mình, Hoàng Trung Thông xa lìa dần con người chức vụ”.

Mang cốt cách người Nghệ, là sự chăm chỉ, hay lam hay làm, Hoàng Trung Thông luôn tìm tòi, học hỏi, nâng cao kiến văn. Ông thành thạo 3 ngoại ngữ: Anh, Pháp, Trung, sau này còn tự học thêm tiếng Nga. Ông là dịch giả uy tín, đã giới thiệu và dịch nhiều tác phẩm của các nhà thơ nổi tiếng: Puskin, Maiacôpki, Đỗ Phủ, Lục Du, Hainơ,… Ngay cả khi đã có vị trí cao trong giới văn nghệ, ông vẫn cần mẫn dịch thuật hàng ngày. Đó có thể là một cách ông để tiếp cận với nguồn tri thức đồ sộ của thế giới, nhưng cũng có thể là sự đồng điệu của những trái tim, vượt qua giới hạn của đường biên, cột mốc. Trên quảng trường Maiacôpxki, ông đã đứng giữa mưa phùn gió rét, mà bước chân lưu luyến chẳng thể rời đi. Bởi ở đó, có “Một trái tim cộng sản thiết tha/ Một trái tim ứ mọng thơ ca/”Yêu vĩ đại/ Căm thù vĩ đại”. Hay khi đến với Trung Quốc, qua mộ Bạch Cư Dị “Khúc Trường hận trong lòng tôi vẫn hát/ Tiếc con tàu thời đại phải đi xa”.

Có người đã ví, chỉ riêng nhà thơ Hoàng Trung Thông đã là một Viện. Ở ông, không chỉ là kiến văn uyên bác, sâu sắc, mà còn có sự nhạy cảm, tinh tế của một tâm hồn thơ, bởi vậy bên cạnh 11 tập thơ: Quê hương chiến đấu (1955), Đường chúng ta đi (1960), Những cánh buồm (1964), Đầu sóng (1968), Trong gió lửa (1971), Ô kê cuốn gói (thơ đả kích, 1973), Như đi trong mơ (1977), Chiến công tuổi thơ (1983), Hương mùa thơ (1984), Tiếng thơ không dứt (1989) và Mời trăng (1992), ông còn sở hữu 3 tập lý luận phê bình: Chặng đường mới của văn học chúng ta (1961), Cuộc sống thơ và thơ cuộc sống (1979), Những người thân, những người bạn. Ông viết về những tác giả lớn của văn học Việt Nam với những chi tiết thật mới mẻ, vừa cụ thể vừa bao quát. Bởi các nhà văn, nhà thơ như: Nguyễn Tuân, Đặng Thai Mai, Ngô Tất Tố, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư…, các hoạ sĩ Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Sáng,… cũng là những người thầy, những người bạn, đã từng đồng hành với ông trong cuộc sống, ông thấu hiểu tâm sự, tính cách của từng người. Thế nên, mới có những dòng viết về Nam Cao: “Nam Cao là người rất tỉnh. Nhưng cũng có lúc Nam Cao say. Ai đã từng uống rượu với Nam Cao thì mới biết hết tấm lòng của anh. Khi rượu bốc lên, anh cũng chửi văng mạng như Chí Phèo. Lúc đó, có lẽ mới thật là Nam Cao. Nhưng lúc đó, Nam Cao hoá Chí Phèo hay Chí Phèo hoá Nam Cao?”. Một cách nhìn tinh tế, thâm trầm về bạn, mà rồi cuối cùng, lại vận vào chính cuộc đời Hoàng Trung Thông, khi những năm cuối đời, ông la đà trong những cơn say rượu một cách khó lý giải…

Là nhà thơ tiêu biểu trong dòng thơ cách mạng, cả một đời ông hiến dâng cho Đảng, cho cách mạng, với những câu thơ là vũ khí, phản ánh khí thế của đoàn quân ra trận, của tấm lòng những người mẹ hậu phương… Những câu thơ trong tập Quê hương chiến đấu, Đường chúng ta đi, Những cánh buồm,… đã vẽ nên bức tranh làng quê chân thực những ngày “Căm thù vót sắc/ Căm thù khắc sâu/ Người trước ngã, có người sau/ Chỉ một con đường/ Cách mạng”. Đó là làng quê oằn trong nỗi đau của những trận càn, còn vương vấn khói bom, thuốc súng, của những quán hàng lạnh lẽo, vọng tiếng khóc trẻ thơ, thế mà từ những hầm ngầm, chiến luỹ giao thông “Những bóng người du kích hiện lên/ Người dân cày địch hậu ngày đêm/ Cầm giáo mác/ Giữ gìn xóm mạc”.

Như nhà thơ Vũ Quần Phương từng nhận định: “Thơ Hoàng Trung Thông mang những thuộc tính của đất: Chắc bền, bình dị và có sức nuôi người”. Những câu thơ theo thể tự do phóng khoáng nhưng mang sức nặng của trái tim yêu nước, trăn trở vì hạnh phúc của những người cần lao. Bởi thế, chủ thể trong thơ Trần Hữu Thung luôn là những con người thật bình dị. Đó là người mẹ chiến sĩ, là các anh giải phóng quân, là anh chủ nhiệm,… Họ hiện lên trong lấp láp gian truân nhưng toả rạng bởi lòng nhân ái, khát vọng được cống hiến cho đất nước. Cho nên những câu thơ ngắn trong bài “Bao giờ trở lại” được nhiều thế hệ thuộc lòng, đọc đi đọc lại không biết chán. Tâm hồn đôn hậu của nhà thơ đã mở lòng đón lấy luồng gió của thời đại, và phản chiếu trong những câu thơ dung dị, đời thường. “Các anh đi/ Bao giờ trở lại/ Xóm làng tôi/ Trai gái vẫn chờ mong”…

Bên cạnh con người say sưa lý tưởng, trong thơ Hoàng Trung Thông còn là nét lãng mạn đầy hào hoa, với những bức tranh chấm phá giàu sức gợi. Năm 1962, nhà thơ Hoàng Trung Thông có dịp lên Trùng Khánh (Cao Bằng) trong dịp đầu xuân. Và bài thơ “Chợ Cô Sầu” được ra đời với những câu thơ đầy xao xuyến:

Chợ Cô Sầu
Lất phất mưa bay
Đừng sợ đường trơn anh dắt tay
Áo chàm ai nhuộm mà xanh thế
Không rượu nhưng lòng vẫn cứ say.

Những áng thơ vừa đẹp, nét đẹp trong trẻo, đầy lãng mạn, vừa chuyển tải một tình yêu nồng nàn, say sưa của tác giả với non nước và con người vùng đất Cao Bằng. Theo những bước chân, phong cảnh quê hương chợt hiện ra, như thực mà như ảo. Trên hồ Ba Bể, nhà thơ có lúc giật mình “Phải ta vượt khỏi nơi trần thế/ Tới giữa mông lung, giữa diệu kỳ”, và những câu thơ vút lên, chớp lại một bức tranh tuyệt đẹp cho văn học Việt Nam:

Thuyền ta lướt nhẹ trên Ba Bể
Trên cả mây trời trên núi xanh
Mây trắng bồng bềnh trôi lặng lẽ
Mái chèo khua bóng núi rung rinh.

Thuyền ta quanh quất trên Ba Bể
Đỏ ối vườn cam, thắm bãi ngô
… Một lần đã tới, ôi Ba Bể
Muốn ở đây thôi chẳng muốn về.

Trong con người bình dị ấy, ẩn chứa những nét phóng khoáng, bay bổng đến bất ngờ. Một tiếng sáo của chú bé mục đồng mà cả ký ức tuổi thơ trong ông sống dậy; một tiếng đàn đêm khuya trên đỉnh Lũng Cú cũng gợi nên cả một bức tranh mê hoặc về vùng cao:

Từng tiếng đàn rơi nghe ngân vang

Như tiếng vó ngựa trên dốc đá

Như tiếng chày ai buông nhặt khoan

Như dòng suối nhỏ reo tý tách

Như dải mây trời đi lang thang.

Với những cống hiến không ngừng nghỉ đối với sự nghiệp văn học nghệ thuật nước nhà, Hoàng Trung Thung đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (đợt I, năm 2001) và Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (đợt VI). Trước đó, ông từng nhận giải Ba văn học dịch với tác phẩm Vương Quý và Lý Hương Hương (tác giả Lý Quý, 1954); Giải thưởng thơ của Hội Văn nghệ Việt Nam (1954 - 1955),…

TỈNH TRONG NHỮNG CƠN SAY

Nói về mình, Hoàng Trung Thông từng hóm hỉnh trích câu nói của người bạn thơ: “Chế Lan Viên chưa bao giờ khen thơ tôi mà khi viết thường nói thơ tôi phải say hơn nữa. Tôi cố uống rượu để cho say mà thơ tôi vẫn tỉnh như mọi người đều nói”. Tập thơ cuối đời của ông - Mời trăng - có lẽ đúng hơn cả với lời tự sự đó.

Tập thơ chủ yếu được ông viết ở Trúc viên thi quán và được in trong sự đùm bọc, giúp đỡ của bạn bè. Tập thơ đã hé lộ một con người khác của Hoàng Trung Thông với những nỗi buồn ẩn sâu, chua chát: Tôi muốn uống rượu trong/ Lại phải uống rượu đục/ Chao! Sông cũng như người/ Có lúc và có khúc”.  Chắc nhiều người sẽ đặt ra câu hỏi: Tại sao một nhà thơ được cả nước biết tên, có những tác phẩm đóng đinh trong lòng người nhiều thế hệ, từng giữ những vị trí quản lý quan trọng trên văn đàn mà thẳm sâu trong tâm hồn vẫn chất chứa nỗi buồn không thể sẻ chia, bày tỏ?

Con trai út của ông kể lại: Những năm trước khi ông bệnh nặng, ông thường đạp xe ra ga tàu uống rượu sáng. Bởi ở đó có người đợi tàu nên người ta mới bán rượu từ sáng sớm, và cũng ở đó, dù sáng sớm nhưng vẫn đông vui. Có lần, nhà thơ Phạm Tiến Duật gặp ông đi bộ từ lúc sáng sớm, hỏi đi đâu, thì ông bảo: Đi uống!. “Lâu rồi mình không được say. Uống rượu lúc ăn rồi thì mất nhiều tiền lắm mới say được. Hôm nay đi uống khi trong bụng không có gì”. Nghe thật chua xót. Rượu chẳng qua là cây cầu mượn tạm để ông say, để ông quên đi nỗi đau lớn trong lòng, mà lúc tỉnh vẫn làm ông nhức buốt...

Nhà thơ Vũ Quần Phương lại cho rằng: “Hoàng Trung Thông vừa là nhà thơ, vừa biết lý luận, vừa biết ngoại ngữ để đọc thơ phương Tây, vừa biết chữ Hán, chữ Nôm để đọc thơ phương Đông. Cho nên, bên cạnh cái mới mẻ tư duy của phương Tây, ông còn có cái thâm trầm, sâu sắc của tư duy phương Đông. Đấy là con người dễ mến, có cái uyên bác của một nhà nghiên cứu, nhưng lại có cái dân dã của người mê rượu. Người mê rượu cởi mở lắm, gặp ai mà đã chén chú chén anh rồi thì không phân biệt cấp trên cấp dưới. Nhà thơ Hoàng Trung Thông có cái đó mặc dù ông uống không nhiều. Ông mượn cái say của rượu để chan hoà với đời - không có ông Viện trưởng, không có ông Vụ trưởng mà chỉ có một ông nhà thơ có tác phong rất dân gian”.

Là một người thiết tha yêu lý tưởng, sống và phụng sự cho Tổ quốc, hơn ai hết, ông là người luôn xung kích trong các chủ trương, đường lối. Thế nhưng, có những chuyện đã khiến ông đau lòng. Khi còn là Tổng Biên tập báo Văn nghệ, nghe người ta kể lại, đâu như năm 1968, khi phải hạ bút ký duyệt bài “đánh” lại Tùy bút Tình rừng của Nguyễn Tuân, ông đã ứa nước mắt. Những trớ trêu của đời sống đã làm trái tim thi sĩ nhỏ máu. Trong bài “Mời trăng”, ông viết: “Một mình ta mời trăng, mời bạn/ Trăng biết đâu lòng ta lệ đầm”. Cái tôi cô đơn hiện lên trong thơ ngạo nghễ, đắng chát. Nhớ tới xa xăm, mời bạn đó mà chỉ còn ta với ta. Có người nói, thời gian này ông rơi vào ảo vọng: “Ngày lại ngày/ ta tỉnh/ hay/ ta say/ Ta nhìn mặt trời/ tưởng là mặt trăng/ mặt trời chói lọi/ sao mây mờ giăng/ và ta tự hỏi/ làm gì được chăng?” (Ngày). Tưởng là ảo vọng, nhưng vẫn là cái tôi đầy kiêu hãnh của một nhà thơ, dường như có phần bế tắc trong cuộc sống. Một câu hỏi tưởng như trong cơn say, để thấy rằng nhà thơ đang tỉnh hơn bao giờ, biết mình đang ở đâu, và biết chẳng thể làm gì trước thời cuộc. Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đã lý giải nỗi sầu muộn đó như thế này: “Trong khi buộc phải có những quyết định mà mình không mong muốn, con người nghệ sĩ vẫn thức dậy. Thức dậy trong đau đớn. Thức dậy không đủ để thay đổi tình hình. Nhưng dẫu sao cũng đã thức tỉnh, để chứng tỏ là lương tâm vẫn còn trong mình” (Báo Văn nghệ, số Tết Kỷ Sửu - 2009).

Tập thơ Mời trăng xuất bản năm 1992 thì tới năm 1993, nhà thơ Hoàng Trung Thông tạ thế. Trong nhiều bài thơ, ông đã dự cảm điều đó và đón nhận với một nét thanh thản, khi hoà vào nhịp thở của thiên nhiên: “Hãy im/ Hãy im/ Cây hòe nhé/ Thổi mát cho hồn ta/ Để ngày mai ta không còn được ngồi/ Dưới gốc hòe/ Nghe tiếng ve” (Dưới gốc hoè). Và ông không quên dành một tình yêu sâu nặng cho người vợ tào khang, như một lời chuộc lỗi. Trong dự cảm cách xa, trong tình yêu vẫn tròn trịa trong trái tim, người nghệ sĩ vẫn thản nhiên khi nhìn trước quy luật cuộc sống:  “Em ơi/ Ta sống với nhau suốt đời/ Đến chết/ Nhưng không chết đâu/ Khi đã yêu nhau/ Khi tình yêu gắn chặt/ Và sự sống là có vui có đau”.

Chị Bích Hà, con gái nhà thơ đã kể lại: Cuối đời, khi đổ bệnh, đêm đêm ông lại ngồi thì thầm trò chuyện với mấy pho tượng Đỗ Phủ, Lục Du, Lỗ Tấn… Những pho tượng bằng sứ như lắng nghe những lời thầm thĩ đó. “Có khi ông ngồi bó gối, lặng yên như tảng đá. Có lúc ông ngâm thơ Đỗ Phủ, Lục Du. Rồi ông ôm mặt khóc” (Người say trong tỉnh, tỉnh trong say, Vũ Tử Trang).

Cuối cùng thì ông đã hoá giải mọi nỗi đau, về với miền mây trắng, để lại một nhân cách cao cả của một trái tim ưu lo với thời cuộc. Hoàng Trung Thông không chỉ tạc lên dòng thời gian chân dung một nhà thơ tiêu biểu trong dòng thơ cách mạng, một tâm hồn nghệ sĩ tài hoa, uyên bác mà còn để lại trong lòng bè bạn một tấm lòng thuỷ chung, đôn hậu, chân chất nét thôn quê dân dã của Xứ Nghệ yêu thương.