Nhật ký chiến trường của người lính quân y xứ Nghệ
Trong nếp nhà xưa, ông Đặng Duy Huỳnh ở xã Phúc Sơn (Anh Sơn) lần giở những trang nhật ký chiến trường để tìm về những năm tháng tuổi trẻ, ở đó không có gì khác ngoài cảnh bom rơi, đạn nổ, là tinh thần và ý chí chiến đấu của người lính, là tình đồng đội và nghĩa hậu phương.
Những tờ giấy pơ – luya được gấp phẳng phiu, nét chữ bút bi ngay ngắn, thẳng hàng, tất cả gói trọn những suy tư và tâm tình của người lính quân y đến từ miền Tây xứ Nghệ. Ông Huỳnh chia sẻ: “Suốt 12 năm quân ngũ, đi qua những trận chiến khốc liệt, không ít lần đối mặt với cái chết nhưng tôi vẫn quyết tâm giữ bằng được những tập nhật ký, đó là tài sản có giá trị nhất trong ngày trở về”.
Những dòng nhật ký đã đưa cựu chiến binh Đặng Duy Huỳnh (sinh năm 1946) ngược thời gian, trở về với hồi còn là sinh viên năm thứ 3 Trường Đại học Y khoa Hà Nội. Thời điểm cuối năm 1970, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ đang vô cùng ác liệt, chiến trường miền Nam cần chi viện sức người, đặc biệt là lực lượng y, bác sĩ để chăm sóc, cứu chữa thương binh, ông Huỳnh cùng 99 người bạn cùng khóa học được điều động.
Chàng sinh viên Y khoa được về thăm nhà và lập gia đình với một cô giáo trường làng, rồi lại vội vàng ra Thủ đô huấn luyện chờ ngày vào chiến trường. Đầu năm 1971, Đặng Duy Huỳnh tạm xếp bút nghiên, từ giã giảng đường và trở thành chiến sĩ quân y.
Hành trang mang theo vào chiến trường Đông Nam Bộ ngoài quân phục, vũ khí, thuốc men và các loại nhu yếu phẩm còn có tập giấy pơ luya và mấy chiếc bút bi. Những người lính trẻ ra đi từ giảng đường đại học thường rất lãng mạn, họ có thói quen ghi chép những câu chuyện xảy ra hàng ngày và bộc bạch những suy tư, gửi gắm những nỗi niềm của người trong cuộc.
Để rồi, khi cuộc chiến đi qua, có không ít những tập nhật ký có giá trị văn học, bổ sung vào nguồn tư liệu lịch sử, giúp thế hệ sau hiểu rõ hơn về người lính thời đánh Mỹ. Trong số đó, phải kể đến “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” và “Mãi mãi tuổi 20” của Nguyễn Văn Thạc, cả hai tác giả đều hy sinh trong cuộc chiến nhưng tên tuổi sẽ sống mãi với những dòng nhật ký của mình.
May mắn hơn những đồng đội đã ngã xuống, ông Đặng Duy Huỳnh chỉ bị thương, được về quê hương đoàn tụ với gia đình và mang theo những tập nhật ký. Nhật ký của ông được chia thành 6 tập, có đánh số thứ tự từng tập, là những dòng ghi chép chiến sự, công việc, sinh hoạt và tâm tư trong quãng thời gian 5 năm (1971-1975) của một người lính quân y.
Ở đó, có không ít những trang ghi lại cảnh chiến trường ác liệt, điển hình như: “4h30 phút, B52 đánh trúng bãi để xe, nhưng xe chỉ bị cây đè. Đang nghỉ trưa, bất thình lình nhảy ra khỏi võng, men tới cửa hầm thì loạt bom đầu đã nổ hết. 5h chiều cả đoàn qua sông Sài Gòn… Đúng là thần chết đang ở trước mặt, mấy chiếc trực thăng quần mấy vòng, cả đoàn chỉ có 1 khẩu AK, xác định nếu nó phát hiện được, một là bị bắt sống, và hai là bị bắn chết…”.
Và đây là nỗi đau đớn khi hay tin một đồng đội hy sinh: “Tin báo về Thích đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ bên Trảng Bàng (lọt vào trận địa tăng của địch). Mới hôm qua, mình vào cổng Tham mưu gặp Thích đi ra với khẩu AK, không kịp chuyện trò, chỉ chào nhau một câu thôi. Thôi rồi! Thích sẽ nằm lại trên mảnh đất này khi chiến thắng đang dồn dập. Vĩnh biệt Thích nhé!”.
Và trong tập nhật ký ấy có cả nỗi buồn đau dằng dặc từ phía hậu phương khi nhận được tin người thân qua đời: “Nhận được thư vợ. Buồn nhiều vì nhận được thông tin 2 bác đã mất, lòng ngậm ngùi biết nói với ai được lúc này? Bác ơi! Cháu vẫn hẹn ngày về gặp 2 bác nhưng bác đã đi rồi cháu biết làm sao được nữa. Buổi sáng 4/1/1971 cháu chia tay 2 bác đi làm nhiệm vụ lại là buổi cháu và 2 bác vĩnh biệt nhau…”.
Với những người lính quanh năm bạn cùng cây súng, khát khao lớn nhất là nhanh đến ngày đình chiến để được nghỉ ngơi, có được một giấc ngủ vô lo, vô nghĩ. Và ngày ấy đã đến, chiến sĩ Đặng Duy Huỳnh đã ghi lại cảm xúc của mình trong ngày đầu tiên sau Hiệp định Paris: “Ngày 28/1/1973: Ngày đình chiến đã đến, bao nhiêu năm đấu tranh đầy gian khổ, hy sinh, gay go và ác liệt. Từ 7 giờ sáng hôm nay đã bắt đầu ngừng bắn theo Hiệp định, thế nhưng một vài khu vực xung quanh vẫn còn tiếng pháo lớn. Mấy ngày qua B52 có đánh nhưng ít hơn. Đêm qua địch vẫn còn đánh xuống nhưng chỉ một vài lần. Bao nhiêu hy vọng, đợi chờ của dân tộc hôm nay đã đến. Không khí ngừng bắn có vẻ dễ chịu thật. Gia đình chắc đang chuẩn bị đón một cái tết ngừng tiếng súng mà bao nhiêu năm qua không thể nào có được…”.
Đón Tết Ất Mão (1975) giữa chiến trường, người lính không khỏi bồi hồi, xao xuyến, trong đêm Giao thừa, người chiến sĩ đã bộc bạch dòng cảm xúc: “30 Tết (10/2/75). 21 giờ… Thời gian cứ trôi, tết thứ 5 ở chiến trường. Xuân đến sao tâm hồn không rạo rực? Có phải do mình đón Xuân xa đơn vị không? Có lẽ thế!… Giờ này chắc cha mẹ đang quây quần bên bếp lửa, chắc nhớ con nhiều. Giao thừa sắp đến rồi đó. Tết này nữa thiếu con chắc cha mẹ thêm một nỗi lo, buồn, nhà thừa hẳn đi một góc mươn…”.
Và đây là tâm trạng của ông Huynh trong phút Giao thừa thiêng liêng: “Xuân Ất Mão, giao thừa, 0 giờ… Giao thừa đến cả mọi miền Tổ quốc/ Xuân đã về, ôi cuộc sống trào dâng/ Xuân Ất Mão đưa ta vào chiến trận/ Cuộc đọ sức này chiến thắng sẽ về ta”.
Khác với chị Đặng Thùy Trâm, anh Nguyễn Văn Thạc và nhiều anh hùng, liệt sĩ khác, chiến sĩ quân y Đặng Duy Huỳnh được có mặt trong ngày Đại thắng mùa Xuân 1975, được chứng kiến phút giây chiến thắng và niềm hạnh phúc vỡ òa.
Giây phút ấy đã được ông ghi lại: “30/4, vào lúc 17 giờ 30. Rạo rực, vui sướng biết bao. 17 giờ, Đài báo tin Sài Gòn đã hoàn toàn giải phóng. Mình vẫn nghĩ rồi phải mất mấy tuần mới chiếm được Sài Gòn là nhanh. Không khí hôm nay khác hẳn, mọi người cả nhân viên và thương binh đều phấn khởi, không khí chiến thắng rộn hẳn lên. Ngày ký Hiệp định Paris mừng nhưng vẫn còn kẻ thù, song kẻ thù giờ đã đầu hàng vô điều kiện. Tiếc là không có cái máy nào để ghi lại tâm trạng mọi người lúc này và không khí hôm nay. Vui sướng và rạo rực làm sao…”.
Những tập nhật ký được ông Đặng Duy Huỳnh cất giữ cẩn thận trong chiếc hộp đựng thuốc bằng sắt đưa về từ chiến trường. Và ông còn lưu giữ nhiều kỷ vật đời lính như chiếc ba lô, bi đông đựng nước, dao găm, đèn pin.
Lưu giữ những kỷ vật ấy, người lính quân y năm xưa muốn khắc ghi mãi những năm tháng sôi nổi, hào hùng của tuổi trẻ. Mỗi khi cháu con sum vầy và có đồng đội ghé thăm, ông lại lần giở những tập nhật ký và các kỷ vật, mỗi trang nhật ký và mỗi kỷ vật là một câu chuyện…