NHỚ TẾT XƯA
Ngày ấy lũ học trò chúng tôi được nhà trường cho tổng kết và nghỉ học sớm. Vậy là sách vở cùng con chữ xếp lại, nhường chỗ cho cái phấn khởi, rộn ràng được về quê ăn Tết. Ở chốn quê lúc này bà con đã cố gắng xong sớm việc đồng, khắp làng trên xóm dưới chộn rộn không khí chuẩn bị Tết. Làng tôi tựa núi nhưng cũng lắm ao chuôm. Khởi đầu cho Tết là công việc tát ao bắt cá. Thanh niên trai tráng hò nhau bì bõm xuống ao còn trên bờ các bà, các mẹ, các chị đã sẵn sàng nào thau, nào rổ, nào xô đựng cá. Mỗi nhà được chia một suất cá với đủ thể loại, kích cỡ lớn, bé. Nhận phần cá chia về, bà tôi ướp kho bằng niêu đất cùng nhiều thức gia vị vườn nhà. Cá kho xong được treo cao trên gióng tre ông đã bện sẵn. Kho kỹ, cá để được lâu và hương vị đậm đà, thơm bùi, vấn vít đứa trẻ phố thị cả khi đã lớn khôn, trưởng thành…
Cái không khí “vui như Tết” chắc là hội tụ đủ đầy nhất nơi chợ quê. Bởi vậy, chúng tôi mong ngóng lắm được đi chợ Tết dù phải cuốc bộ và từ nhà ông bà tôi ra chợ khá xa. Người đi chợ đông vui như trẩy hội; tiếng chào hỏi, nói cười râm ran. Dường như người ta đi chợ vừa để cả mua và bán. Các chị, các mẹ quảy đôi quang gánh, trong thúng là mớ rau tươi rói vừa hái vườn nhà, buồng chuối xanh vừa hạ hay chục quả na vừa mở mắt, đôi ba con gà trống choai, mái mơ nuôi dành đến Tết… Những dấu chân tần tảo hằn in trên con đường làng. Ngay cổng chợ là hàng bán tò he đủ màu sắc sặc sỡ, hình thù con vật vui mắt níu chân những đứa trẻ. Sạp hàng đơn sơ chỉ với tấm bạt rải dưới đất nhưng trên đó có đủ mọi thứ cho ngày Tết. Ngắm chán tò he, câu đối, chúng tôi thích nhất được sà vào đình chợ nằm bên gốc đa to thưởng thức món bánh rán nóng hổi thơm lừng mùi bột nếp mới. Người làng đi chợ Tết hầu như ai cũng sắm ngoài cành đào, bó lá dong là đôi cây mía to, thân thẳng và dài về dựng bên bàn thờ gia tiên. Ông tôi bảo mía tượng trưng chiếc gậy để tổ tiên về ăn Tết cùng con cháu và còn mang đến sự ngọt ngào, may mắn cho năm mới.
Người lớn thì bận bịu nhất với công việc mổ lợn “đụng” ngày cuối năm. Trong năm, nhiều nhà cùng chung nuôi một con lợn để đến Tết thì mổ thịt. Phần thịt làm nhân gói bánh chưng, phần thịt kho mặn còn phần thịt luộc được xâu sợi lạt treo lên chái bếp. Trông vậy là biết Tết đã đủ đầy. Sau mổ lợn, nhà nhà tấp nập gói bánh chưng, bánh tét. Bao nhiêu bánh, bấy nhiêu nguyên liệu được tính toán, dự liệu chuẩn xác; rồi mỗi người mỗi việc bày biện chu đáo, chuẩn bị cho công việc quan trọng nhất là gói bánh. Đêm cuối năm, trời rét căm căm nhưng quây quần bên bếp lửa canh nồi bánh chưng đón giao thừa thì ấm áp vô cùng. Trong ánh lửa hồng nhảy nhót, lũ trẻ nô đùa chán rồi ngồi nghe ông bà kể chuyện, xuýt xoa củ khoai, bông ngô nóng vùi tro. Háo hức là thế nhưng nào thức được đến giao thừa. Chỉ khi nghe đì đùng ngoài ngõ rồi ngửi mùi mật quyện gừng thơm nồng của món bánh cốm bà vừa đổ xong chúng tôi mới tỉnh giấc. Không nhiều bánh, nhiều kẹo như ở phố hay như ở quê bây giờ, ngày ấy Tết chỉ có món bánh cốm bà đổ, rồi món mứt dừa, mứt gừng các o làm. Thức quà quê đơn sơ mà lũ trẻ chúng tôi vui lắm. Và năm nào cũng vậy, vào thời khắc giao thừa thiêng liêng, ông khai bút làm thơ xuân. Ông tôi hay chữ, mê thơ văn. Sau này, kỉ vật ông để lại tôi vẫn luôn giữ bên mình là chiếc hộp bút ông nắn nót khắc tên tôi và tập truyện Kiều ông tỉ mẩn chép tay…
Sáng mùng Một xúng xính quần áo đẹp, chúng tôi được đi chơi Tết. Thoảng trong làn mưa bụi là hương của đồng đất, cỏ cây nảy lộc đâm chồi quyện với mùi hương trầm. Trên những bãi đất trống bằng phẳng, dân làng chọn những cây tre to, già, chắc chắn, thân đặc để mắc đu. Từng đôi nam thanh nữ tú dập dìu bay bổng theo nhịp đu. Lũ trẻ con chúng tôi chưa được phép leo lên đu mà chỉ đứng dưới ngước mắt nhìn, hò reo cổ vũ. Nhiều trò chơi ngày Tết nhưng ấn tượng nhất ở quê tôi có lẽ là trò đánh đu này. Ông dẫn tôi đi chúc Tết quanh làng. Hồi đó, nhà nọ với nhà kia không kín cổng cao tường mà chỉ cách nhau lúp xúp bờ dậu vương dây tơ hồng ướt đẫm mưa xuân…
Rồi mấy ngày Tết cũng qua nhanh, tôi trở về phố, lòng mong ngóng qua hè đến Tết để lại được về quê. Nhiều mùa Tết trôi qua, ông bà tôi về với tiên tổ, lũ trẻ ngày nào giờ cũng đi muôn phương. Cảnh vật đã nhiều đổi thay nhưng người làng tôi vẫn giữ nhiều nét Tết xưa. Với tôi, Tết xưa bởi nó vẹn nguyên và ghi dấu trong kí ức tuổi thơ. Và dẫu tôi cũng như bao đứa trẻ lớn lên không thường xuyên về quê ăn Tết thì phong vị Tết xưa vẫn mãi vấn vương… Điều đó chắc bởi không chỉ với chúng tôi mà với mỗi người con đất Việt, phong vị Tết cũng chính là phong vị của tình thân, của sự kết nối cội nguồn, nơi nuôi dưỡng và luôn nhắc nhớ ta tìm về.../.
Bài: Nguyễn Thị Anh Hoa