NHÀ CÓ BẢY GIÁO SƯ VÀ PHÓ GIÁO SƯ

1. Trung tuần tháng Chạp năm Quý Mão, Hà Nội mấy ngày liền trời rét đậm (có hôm chỉ 8-9 độ) nhưng đây đó trên các nẻo đường góc phố đào, quất đã khoe sắc, đua hương. PGS, KTS Đặng Thái Hoàng (con trai cố GS Đặng Thai Mai) trong dáng vẻ rét mướt dẫn tôi đi xem Phòng lưu niệm của thân phụ mình rồi ông tâm sự: Cả cuộc đời cha tôi gắn bó với ngành văn hóa, giáo dục và đào tạo. Khi về với tổ tiên, gia tài ông để lại là mấy giá sách và nếp nhà, nếp học cho các con, cháu. Lúc sinh thời, bận bịu với nhiều công việc nên cha tôi ít có thời giờ quan tâm việc học hành của con cái. Tuy nhiên nghĩ về truyền thống gia đình, dòng tộc mà sáu chị em tôi nỗ lực phấn đấu và đều trưởng thành trên vị trí công tác của mình. Xuất thân từ dòng giõi khoa bảng yêu nước ở huyện Thanh Chương, cụ thân sinh của GS Đặng Thai Mai là Phó bảng Đặng Nguyên Cẩn, từng làm Đốc học Nghệ An nhưng vì có tư tưởng yêu nước(tham gia phong trào Duy Tân với Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh) nên bị thực dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo 13 năm liền.

Vợ chồng GS Đặng Thai Mai và các con

Học xong tú tài ở Vinh, Đặng Thai Mai tìm đường ra Hà Nội học Cao đẳng sư phạm Đông Dương. Sau khi tốt nghiệp trường này, ông được bổ vào dạy ở trường Quốc học Huế. Vừa dạy học ông vừa tham gia các tổ chức yêu nước nên bị thực dân Pháp bắt giam ba năm. Ra tù, giữa những năm 30 của thế kỷ trước, Đặng Thai Mai ra Hà Nội cùng các ông Phan Thanh, Hoàng Minh Giám sáng lập và dạy học ở Trường tư thục Thăng Long. Năm 1936, từ sáng kiến của đồng chí Trường Chinh, Đặng Thai Mai cùng với các bạn bè đồng chí hướng như Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu và Nguyễn Văn Tố, tổ chức phong trào truyền bá chữ quốc ngữ tại Hà Nội và sau đó lan rộng ra cả nước. Thạo Hán học và giỏi tiếng Pháp nên ông sớm tiếp xúc với văn hóa phương Tây, nhưng cũng rất quan tâm nền văn hóa dân tộc dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Năm 1944, trong không khí chuyển mình của phong trào yêu nước tiến tới tổng khởi nghĩa cách mạng tháng 8/1945, GS Đặng Thai Mai cho ra đời cuốn "Văn học khái luận". GS Hà Minh Đức - một học trò của ông cho rằng "Văn học khái luận" được coi là tác phẩm lý luận văn nghệ đầu tiên được viết theo quan điểm cách mạng, nó phê phán các biểu hiện duy tâm và khuynh hướng tiêu cực của văn học - nghệ thuật đương thời. Mặt khác, đề cao giá trị của tác phẩm phản ánh đời sống của nhân quần, xã hội; đồng thời tùy hoàn cảnh cụ thể mà kết hợp tính dân tộc và tính quốc tế trong mỗi tác phẩm. Một trí thức dám "dấn thân" theo cách mạng, lại có kiến thức uyên thâm về văn hóa Đông Tây kim cổ nhưng sống khiêm nhường và luôn dìu dắt, khích lệ lớp trẻ tiến bộ nên GS Đặng Thai Mai được không ít nhân vật nổi tiếng như Tôn Quang Phiệt, Phạm Văn Đồng, Trần Văn Quang, Huy Cận, Văn Cao, Nguyễn Đình Thi…nể trọng. Cũng vì lẽ đó cụ Mai đã được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh giao các trọng trách như Bộ trưởng Giáo dục (năm 1946); Hội trưởng Hội Văn nghệ Việt Nam (1948 – 1957, sau này là Liên hiệp các hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam); Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Viện trưởng Viện Văn học (1959 - 1976)... Ngoài tác phẩm "Văn học khái luận", GS Mai còn để lại các công trình có giá trị như "Tạp văn trong Văn học Trung Quốc ngày nay" (1945), "Chủ nghĩa nhân văn thời văn hóa phục hưng" (1949), "Lược sử văn học hiện đại Trung Quốc" (1958), "Trên đường học tập và nghiên cứu", tập 1 (1959), tập 2 (1969), tập 3 (1970)... Ghi nhận những cống hiến của nhà văn hóa lớn Đặng Thai Mai, Đảng và Nhà nước ta đã truy tặng ông Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật (đợt 1/1996).

Bác Hồ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và GS Mai(ngoài cùng bên trái) trong một dịp tiếp khách quốc tế

2. Bận bịu với công việc xã hội, việc cơ quan, GS Đặng Thai Mai không có thời gian để quan tâm việc học của các con mình. Chỉ có lần ông dặn, mấy chị em bảo ban nhau cố mà học; phát huy sở trường, sở đoản, đọc sách tích lũy kiến thức để ra đời làm việc được thuận lợi, hanh thông. PGS Đặng Thái Hoàng (con trai duy nhất của cụ Mai) chọn cho mình con đường đi riêng là lĩnh vực kiến trúc. Nhờ được đi đào tạo chuyên ngành ở nước ngoài, lại dành tâm sức nghiên cứu nên PGS Hoàng đã xuất bản hơn 40 đầu sách, trong đó có những công trình tiêu biểu như: Bảo tồn di sản kiến trúc Hà Nội, Giáo trình lịch sử kiến trúc thế giới (2 tập), Tổng quan về đô thị và kiến trúc Mỹ, Những công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới, Chủ nghĩa ẩn dụ trong kiến trúc, Đô thị và kiến trúc Nhật Bản, Ghi chép về cuộc sống và nghệ thuật...Ông cũng là một trong số ít những người có bộ sưu tập tranh và điêu khắc của Hà Nội với hơn 250 tác phẩm nổi tiếng trong và ngoài nước. PGS Đặng Thái Hoàng vinh dự được nhận Giải thưởng Nhà nước về Nghệ thuật năm 2007.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và bà Đặng Bích Hà

Không giống với các chị mình là PGS Đặng Bích Hà (Nhà sử học - phu nhân Đại tướng Võ Nguyên Giáp), PGS Đặng Thị Hạnh (vợ của Trung tướng Phạm Hồng Cư), PGS Đặng Anh Đào(vợ Trung tướng Phạm Hồng Sơn), GS Đặng Thanh Lê (văn học), cô em gái út PGS Đặng Xuyến Như lại đam mê nghiên cứu sinh học. Bà từng tham gia thực hiện hàng chục đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ và giữ vai trò là Phó Viện trưởng Ứng dụng công nghệ kiêm Giám đốc Trung tâm sinh học thực nghiệm (Bộ Khoa học và Công nghệ). Trong số những người con gái theo đuổi nghiệp giảng dạy và nghiên cứu văn chương của GS Đặng Thai Mai phải kể đến PGS - NGƯT Đặng Thị Hạnh, GS Đặng Thanh Lê và PGS Đặng Anh Đào. Cùng với GS - NGND Lê Hồng Sâm, bà Hạnh là một trong rất hiếm nữ cán bộ giảng dạy ở Khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội cuối những năm 50 của thế kỷ trước (sau này là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội). Bộ đôi này, một người chuyên về văn học hiện thực, còn người kia lại chuyên về văn học lãng mạn Pháp thế kỷ XIX. Nói về quá trình giảng dạy và nghiên cứu khoa học của mình, có lần PGS Đặng Thị Hạnh thổ lộ: thế hệ tôi may mắn được thụ giáo các bậc thầy lớn như GS Đào Duy Anh, GS Cao Xuân Huy, GS Nguyễn Tài Cẩn...Tôi lại được sinh ra trong một gia đình mà cha tôi luôn có nguồn tư liệu, tác phẩm văn học trong nước và văn học nước ngoài. Những yếu tố đó quả thực đã ảnh hưởng lớn đến công việc giảng dạy và nghiên cứu của mình. Công trình của PGS Đặng Thị Hạnh để lại không nhiều nhưng với một số tác phẩm viết chung và đứng riêng như "Lịch sử Văn học Pháp thế kỷ XIX", “Tiểu thuyết Hugo”, "Một số gương mặt văn xuôi Pháp thế kỷ XX", "Cô bé nhìn mưa" (Hồi ký), “Truyện ngắn các nước sử dụng tiếng Pháp” và một số bài viết về Alphonse de Lamarrtin, Alfred de Musset, George Sand, Marcel Proust … cũng đủ để bà xứng danh là chuyên gia hàng đầu về văn học, văn hóa Pháp. Có lẽ vì thế mà năm 2013, Chính phủ Pháp đã trao tặng PGS Đặng Thị Hạnh Huân chương cành cọ hàn lâm.

Cuốn sách tập hợp các bài viết của bạn bè, đồng nghiệp về GS Mai

Nếu chị gái chuyên sâu về văn học nước ngoài thì cô em, GS-NSƯT Đặng Thanh Lê (1932 - 2020) lại nặng lòng với văn học truyền thống của dân tộc. Tốt nghiệp Trường sư phạm cao cấp Liên khu IV năm 1953, sau mấy năm dạy cấp 3 ở Bắc Ninh, từ 1959 Đặng Thanh Lê về công tác ở Khoa văn - Đại học Sư phạm Hà Nội. Với sự nỗ lực trong hoạt động đào tạo và đam mê nghiên cứu GS Đặng Thanh Lê từng được giao các trọng trách Chủ nhiệm bộ môn văn học trung đại, Giám đốc Trung tâm Việt Nam học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Theo GS Phan Trọng Luận, bạn học và là đồng nghiệp thì trong khoa học, GS Đặng Thanh Lê là người luôn nhạy cảm và sắc sảo trong việc nhìn nhận, đánh giá những biểu hiện quá đà trong nghiên cứu phê bình văn học. Là chuyên gia về lịch sử văn học trung đại và truyện Kiều, GS Lê đã có một số công trình gây được sự chú ý của giới nghiên cứu. Chẳng hạn "Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm" (xuất bản năm 1973), ở đây tác giả đã có những kiến giải mới mẻ về thể loại truyện - một cách nhìn mà thời điểm đó chưa mấy người chú ý.

Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong một lần gặp gỡ Hội đồng tư vấn kiến trúc Chính phủ(ông Hoàng mặc com lê trắng là thành viên)

Tuy là công trình đầu tay của GS Đặng Thanh Lê nhưng đã được các GS danh tiếng Nguyễn Khánh Toàn, Đinh Gia Khánh bấy giờ đánh giá cao. Khai thác tác phẩm bất hủ của Đại thi hào Nguyễn Du, GS Lê còn có cuốn sách "Giảng văn Truyện Kiều" mà theo GS Lê Đình Kỵ (Khoa Ngữ văn - Đại học Tổng hợp Hà Nội) nhận xét rằng, tác giả đã thể hiện khả năng phân tích, mổ xẻ các hình tượng nhân vật của Nguyễn Du một cách tinh tế, sâu sắc. Đồng thời đưa ra được những nhận định mới mẻ và xác đáng. Ngoài ra Đặng Thanh Lê còn có các tác phẩm gây ấn tượng trong công chúng bạn đọc như "Mấy vấn đề phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay", "Văn hóa trong phát triển và toàn cầu hóa". Riêng về hoạt động của Trung tâm Việt Nam học, với vai trò Giám đốc trong nhiều năm, GS Đặng Thanh Lê đã bộc lộ tầm nhìn văn hóa, về khả năng tập hợp đội ngũ trí thức trong thời kỳ hội nhập của đất nước. Trung tâm không chỉ thu hút được học viên của nhiều nước (Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Pháp, Đức, Italia, Hoa Kỳ...) mà còn mở rộng quan hệ giao lưu với giới khoa học quốc tế cho đội ngũ cán bộ giảng dạy của trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

PGS,KTS Đặng Thái Hoàng và tác giả

Có một ái nữ nữa của cố GS Đặng Thai Mai không thể không nhắc đến là PGS Đặng Anh Đào (vợ Trung tướng Phạm Hồng Sơn). PGS Đặng Thái Hoàng cho biết: Cuộc đời của chị Đào có một bước ngoặt, đó là năm 1967, từ một giáo viên ở một trường cấp III Hà Nội, chị chuyển về giảng dạy tại Khoa Văn - Đại học Sư phạm Hà Nội và không ngừng nghiên cứu, dịch thuật văn học Pháp. Đi theo con đường của chị gái Đặng Thị Hạnh, nhưng công trình của PGS Đặng Anh Đào có phần nổi trội hơn. Bên cạnh một số cuốn sách chuyên khảo, chuyên luận như “Balzac và cuộc săn tìm nhân vật chính diện trong bộ “Tấn trò đời", "Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương tây hiện đại", “Hugo - cuộc đời và tác phẩm”, PGS Đào còn để lại hàng chục tác phẩm dịch nổi tiếng khác được in trong Tuyển tập truyện ngắn Pháp thế kỷ 19 hay trong bộ “Tấn trò đời” gồm 16 tập. Bà cũng có những sáng tác hoặc hồi ký như “Tầm xuân”, “Võ Nguyên Giáp qua lời kể của những người thân”, “Nhớ và quên”. Mà trong những truyện ngắn, hồi ức này người đọc có thể thấy thấm đẫm tình đời và tình người. Đó là tình cảm trong quan hệ gia tộc, họ hàng và rộng hơn là tình yêu quê hương, đất nước; là quan hệ gắn bó thủy chung như nhất giữa một người phụ nữ làm giảng dạy và nghiên cứu với chồng là một tướng lĩnh quân đội quả cảm, thông minh…

Với gia thế như vậy, không ít người vẫn gọi gia đình GS Đặng Thai Mai là hình mẫu của một gia đình “đại trí thức”…


Bài: Nguyễn Khôi

Thiết kế: Hoàng Bá

Thư viện Cử tri gửi ý kiến Gửi đơn KNTC

Trang chủ

Mới nhất

Quê mình xứ nghệ

Video

Thư viện

Gửi Ý kiến